văn học chữ hán việt nam
Thí dụ: Ðộc lập mà nói "đứng một", du kích thì nói "đánh chơi". Thế cũng là tếu". Trong quá trình tiếp biến, có nhiều từ Hán sau khi được Việt hóa trở nên thông dụng, không còn là nghĩa gốc (thậm chí trái nghĩa với nguyên gốc), nhưng chúng ta vẫn chấp nhận
Dịch tiếng Hán Nôm là một loại hình dịch thuật khó nhất trong tất cả các loại hình bởi tính phức tạp của nó. Tiếng Hán Nôm đã có từ rất lâu đời, được sử dụng trong các triều đại ở Việt Nam như một ngôn ngữ chính thức theo đúng tập tục của Trung Quốc thời điểm đó - Do Việt Nam là thuộc địa
Con đường hiện đại hoá văn học của các nước khu vực văn hoá chữ Hán là một con đường quanh co, gấp khúc, không đồng đều, nhiều quá trình đan xen lẫn nhau, bị quy định bởi điều kiện lịch sử và đặc tính dân tộc. Xin thử phác hoạ một vài nét chính dưới đây. 1
Gửi các học viên Việt Nam [2018] Gửi các học viên Pháp Luân Công Việt Nam: Chào tất cả! Tu luyện là quá trình thăng hoa của sinh mệnh, là bắt đầu từ từng bước từng bước làm người tốt, dần dần thành người tốt hơn nữa, [thành] sinh mệnh cao thượng vượt khỏi người thường, cho đến cao hơn nữa.
Chữ Hán cổ của Sơ vốn được viết là "Tòng y tòng đao" tức là dùng dao/kéo cắt vải mà thành nên bộ y phục, đến nay chữ Hán Nôm của ta viết là "初" vẫn bao gồm bộ Y 衤 và bộ Đao 刀, cũng chính là hai chữ tượng hình trên logo của "Sơ". Dùng dao cắt vải là khởi nguồn của việc làm áo, cũng như vậy, "Sơ" là khởi nguồn của vạn vật.
materi pai kelas 4 semester 2 kurikulum 2013. Đặc điểm của văn học Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XIX là A. Văn học chữ Hán phát triển hơn văn học chữ Nôm. B. Văn học chữ Nôm phát triển lấn át văn học chữ Hán. C. Văn học chữ Hán và chữ Nôm suy tàn. D. Phát triển văn học viết bằng chữ Quốc Ngữ. =>Trước khi chữ Quốc Ngữ được đưa vào sử dụng tại Việt Nam vào giữa thế kỷ XIX, văn học Việt Nam chủ yếu được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Tuy nhiên, việc sử dụng hai loại chữ này hạn chế sự phổ biến và tiếp cận của văn học đối với đại chúng. Khi chữ Quốc Ngữ được đưa vào sử dụng, văn học Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn với sự đa dạng thể loại và sự tiếp cận rộng rãi hơn với độc giả.
Nguồn gốc lâu đời của thơ chữ HánNhững bài thơ vang danh lưu truyền thiên cổTiểu thuyết chương hồi khai phát Chữ Hán là văn tự chung của các nước Á Đông cho đến thế đầu thế kỷ 20. Ngoài Trung Quốc, Việt Nam cùng với Nhật Bản, Triều Tiên Hàn Quốc, văn học chữ Hán phát triển rực rỡ, trở thành kỳ hoa dị thảo trong nền văn học Hán văn cổ điển. Nguồn gốc lâu đời của thơ chữ Hán Sau hơn 1000 năm Bắc thuộc, Việt Nam giành được quyền tự chủ vào cuối thời Đường. Do đó, văn hóa đời Đường có ảnh hưởng rất lớn đến nền văn học chữ Hán Việt Nam. Không chỉ âm Hán Việt gần với ngữ âm đời Đường nhất, mà thơ Đường cũng được nền văn học cổ điển Việt Nam kế thừa và kéo dài. Thơ văn cổ Việt Nam khá giống thơ văn cổ Trung Quốc, đều mang một phong vị rất tiêu dao, hàm súc. Sau khi giành được độc lập, trăm việc ngổn ngang, đất nước lại cần phải phục hưng. Triều đại độc lập đầu tiên là nhà Đinh phúc phận ngắn ngủi từ năm 968 đến 980, thể chế chưa đầy đủ, chưa mở trường học. Vua Đinh Bộ Lĩnh ít chữ nghĩa, sau khi cầm quyền muốn dùng uy để cai trị thiên hạ, đặt cái đỉnh lớn trước triều đình, nuôi hổ trong chuồng, hạ lệnh ai trái lại sẽ bị đun chết hoặc cho hổ ăn. Mọi người đều sợ, không có người phạm lỗi. Do đó, triều Đinh không có nền văn học. Kế thừa triều Đinh là triều Tiền Lê 980 – 1010, phúc nước cũng ngắn ngủi giống triều Đinh. Các nhà văn, nhà thơ cũng chỉ thưa thớt, dù vậy đã để lại một số bài thơ chữ Hán sớm nhất còn lưu lại đến nay, tiêu biểu nhất là bài “Quốc tộ” Vận nước của thiền sư Đỗ Pháp Thuận. Quốc tộ như đằng lạcNam thiên lý thái bìnhVô vi cư điện cácXứ xứ tức đao binh Dịch thơ Vận nước chằng chịt dây leoTrời Nam khai mở ắt gieo thái bìnhVô vi xử thế cung đìnhĐao binh tự dứt thái bình nơi nơi. Năm 1010, triều Lý kiến lập liền dựng Văn miếu, mở khoa thi chọn nhân tài, văn phong dần dần phát triển. “Nam quốc sơn hà” Sông núi nước nam của đại tướng Lý Thường Kiệt là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất Nam quốc sơn hà nam đế cưTiệt nhiên định phận tại thiên thưNhư hà nghịch lỗ lai xâm phạmNhữ đẳng hành khán thủ bại hư Dịch thơ Sông núi nước Nam, vua Nam ởRành rành định phận tại sách trờiCớ sao lũ giặc sang xâm phạm?Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời Bản dịch của Hoàng Xuân Hãn Bài thơ này khí phách hào hùng, bút pháp nhuần nhuyễn, đặt vào cùng với Đường thi thì không hề thua kém. Sau thời Lý, văn thơ chữ Hán Việt Nam đã phát triển ổn định, chắc chắn. Có một điểm đặc biệt là rất nhiều bậc quân vương các triều đại đều yêu thích văn thơ chữ Hán. Các vua triều Trần đa phần giỏi văn chương, đến mức người Nguyên phải khen ngợi “An Nam tuy tiểu văn chương tại, vị khả khinh đàm tỉnh để oa” An Nam tuy nhỏ văn chương giỏi, chớ có coi thường chẳng phải ếch ngồi đáy giếng đâu. Lê Thánh Tông là “Tao đàn nguyên soái”. Ảnh Sau đó, vị vua đời thứ 4 triều Hậu Lê là Lê Thánh Tông 1442 – 1497 còn tự lập thi đàn, tự xưng “Tao đàn nguyên soái”. Thơ ông rất nhiều kiệt tác. Đến thời đầu triều Nguyễn, dù đã gần vào thời điểm mạt vận, các Hoàng đế Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cũng đều tinh thông văn thơ chữ Hán, đều có các bài thơ lưu truyền hậu thế. Vua Thiệu Trị 1807 – 1847 còn làm được 2 bài thơ thể “Hồi văn” là thể thơ lặp lại các từ với trật tự khác nhau, ngữ nghĩa khác nhau, có thể thấy trình độ Hán văn của vua rất cao. Một trong hai bài đó là bài thơ “Vũ trung sơn thủy” Non nước trong mưa Loan hoàn vũ hạ giang triều phiếmTrướng dật phong tiền ngạn bái hươngSơn tiêu ám vân thôi trận trậnLãng sinh khiêu ngọc trích thanh thanhSàn sàn thủy giản đài tư nhuậnDạng dạng ba châu liễu mậu vinhNhà điếu nhất chu ngư dật tấnHướng lâm song ông yến phi khinh Dịch thơ khuyết danh Dồn mưa nước cuộn triều dâng ngậpLộng gió sông đào bến biếc xanhNon phủ kín mây tuôn tới tấpSóng khêu thưa giọt gõ lanh canhLan man suối trải rêu tươi mậpSóng sánh cồn vươn cỏ tốt xanhNhàn thoáng một câu thuyền nhẹ tắpDóng rừng dăng kéo én bay nhanh. Đọc ngược đọc xuôi đều hợp luật có vần, có nghĩa, đọc ngược như sau Khinh phi yến tiễn song lâm hướngTấn dật ngư chu nhất điếu nhànVinh mậu liễu châu ba dạng dạngNhuận tư đài giản thủy sàn sànThanh thanh địch ngọc khiêu sinh lãngTrận trận thôi vân ám tỏa sơnThanh biện ngạn tiền phong dật trướngTấn triều giang hạ vũ hoàn loan. Dịch thơ khuyết danh Nhanh bay én kéo dăng rừng dóngTắp nhẹ thuyền câu một thoáng nhànXanh tốt cỏ vươn cồn sánh sóngMập tươi rêu trải suối man lanCanh lanh gõ giọt thưa khêu sóngTấp tới tuôn mây kín phủ nonXanh biếc bến đào sông gió lộngNgập dâng triều cuộn nước mưa dồn Thời đó có các nhà thơ văn nổi tiếng như Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Bạch Hào Tử… Vua Tự Đức 1829 – 1883 đã làm thơ ca ngợi 4 nhà thơ văn trên như sau “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán. Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường” Văn như Siêu, Quát thời tiền Hán chưa từng có. Thơ như Tùng, Tuy là thơ đã thất lạc của thời Thịnh Đường. Tuy có khuếch đại, nhưng bốn người này văn thơ quả là xuất chúng. Như bài thơ “Hoành Sơn vọng hải” Trên núi Hoành Sơn ngắm biển của Cao Bá Quát 1809 – 1855 Quân bất kiếnHải thượng bạch ba như bạch đầuNộ phong hám phá vạn hộc châuLôi khu điện bác hãi nhân mụcTrung hữu điểm điểm phù khinh âuHải khí quyển sơn, sơn như chỉSơn bắc, sơn nam thiên vạn lýCông danh nhất lộ kỷ nhân nhàn?Quan cái phân phân ngã hành hỹ! Dịch thơ Anh chẳng thấyTrắng phau sóng vỗ bạc đầuGầm gào gió thét thuyền tàu vỡ tanKinh người chớp giật sấm ranHải âu đôi chấm bồng bềnh biển khơiNon nam núi bắc xa vờiLạnh dầm hơi biển hao gầy vẻ nonCông danh đường ấy ai nhànNợ đời mũ lọng rộn ràng bước ta Bản dịch của Trương Việt Linh Từ cảnh biển rộng tráng lệ, mênh mông, nhà thơ đã cảm thấy công danh chốn nhân gian chính là một sự bó buộc lớn, thơ có khí khái của Lý Thái Bạch. Cao Bá Quát 1809 – 1855. Những bài thơ vang danh lưu truyền thiên cổ So với Trung Quốc thư tịch cổ nhiều như biển, Việt Nam đặc biệt thời kỳ đầu thư tịch vốn còn lại không nhiều, chủ yếu do chiến tranh loạn lạc liên miên kéo dài. Ví dụ, khi tiến đánh Việt Nam, quân Mông Nguyên đã tiêu 4 bộ “Đại tạng kinh” và 1 bộ “Đạo đức kinh” mà Việt Nam thỉnh về từ nhà Tống. Năm Thiệu Khánh thứ 2 nhà Trần, quân Chiêm Thành từ đường biển vào cướp Thăng Long Hà Nội ngày nay, đã cướp con cái, ngọc lụa, đốt hủy cung điện, “Tranh, bản đồ, thư tịch vì vậy đã bị mất sạch”. Nhưng những thư tịch chữ Hán còn lại vẫn có rất nhiều tuyệt tác. Lý triều Thái Tổ Lý Công Uẩn 974 – 1028 vào năm 1010 đã dời kinh đô đến thành Đại La đổi tên thành Thăng Long. “Chiếu dời đô” do ông viết được coi là tác phẩm văn học viết và văn hiến lịch sử sớm nhất còn lại hiện nay. Tác phẩm mở đầu đầu bằng “Xưa nhà Thương và Bàn Canh 5 lần dời đô, nhà Chu đến Thành Vương 3 lần dời đô”, đã viện dẫn các kinh điển để nói lý do dời đô, văn từ rất hào hùng, xứng danh là tác phẩm truyền đời. Đến thế kỷ thứ 13, khi đại quân Mông Cổ xâm lược áp sát kinh thành Thăng Long, quân đội triều Trần đứng trước quan nạn tan vỡ, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn 1226 – 1300 đã viết “Dụ chư tì tướng hịch văn”, còn gọi là “Hịch tướng sỹ”, khảng khái, phấn chấn ngút trời, cổ vũ ý chí chiến đấu của tướng sỹ bảo vệ quốc gia “Ta thường nghe Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao ế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước. Kính ức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc… Giặc Mông Thát với ta là kẻ địch không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc, để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa?”. Trong bài hịch này, Kỷ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kính Đức Uất Trì Cung, Cảo Khanh anh họ Nhan Chân Khanh đều là những kẻ sỹ trung liệt trong lịch sử. Cũng trong triều Trần đã xuất hiện rất nhiều thơ phú chữ Hán, đáng tiếc là được bảo tồn đến nay chỉ còn mười mấy bài, “Bạch Đằng giang phú” Bài phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu nổi tiếng một thời. Bài phú này mở đầu bằng “Giương buồm giong gió chơi vơiLướt bể chơi trăng mải miết” Cho đến cuối bài “Giặc tan muôn thuở thanh bìnhBởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao” Nhà thơ ví những lần chiến thắng trên sông Bạch Đằng với các trận chiến nổi tiếng lịch sử. “Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bayTrận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụiĐến nay sông nước tuy chảy hoàiMà nhục quân thù khôn rửa nổiTái tạo công laoNghìn xưa ca ngợi” “Bạch Đằng giang phú” là một viên ngọc quý với những câu thơ tuyệt tác còn được lưu truyền đến tận ngày nay. Trong những tác giả này, vị trí cao nhất trong nền văn học chữ Hán thuộc về Nguyễn Trãi, khai quốc công thần triều Hậu Lê do cống hiến to lớn của ông đối với nền văn học Việt Nam. Năm 1980, tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa liên hiệp quốc UNESCO đã tôn vinh ông là danh nhân văn hóa thế giới. Tác phẩm tiêu biểu của ông là “Bình Ngô đại cáo” nổi tiếng trên văn đàn và lịch sử Việt Nam. Bài hịch văn này trở thành “Thiên cổ hùng văn” lấy khẩu khí của Lê Lợi, hoàng đế sáng lập nhà Hậu Lê viết. Lời văn bình dị lưu loát, đọc lên thực sự xúc động lòng người, thực sự có giá trị nghệ thuật và giá trị văn hiến rất cao. Nguyễn Trãi 1380-1442 người làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, nay thuộc Chí Linh, Hải Dương. Ảnh Chữ “Ngô” trong “Bình Ngô đại cáo” là chỉ triều Minh, vì Chu Nguyên Chương đã từng xưng là Ngô Vương. Tư tưởng chính trong toàn bộ tác phẩm là lên án tội ác của triều Minh, đồng thời sử dụng nhuần nhuyễn các tấm gương lịch sử, các điển tích, trong lịch sử, văn học cổ đại Trung Quốc. Điều đó làm cho bài hịch văn đanh thép, luận cứ, dẫn chứng, chứng minh hùng hồn, đầy sức thuyết phục không chỉ đối với tướng sỹ, nhân dân, mà ngay cả đối với kẻ địch, làm nổi bật lên tư tưởng nhân nghĩa, chính nghĩa của cuộc kháng chiến “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dânQuân điếu phạt trước lo trừ bạoNhư nước Đại Việt ta từ trướcVốn xưng nền văn hiến đã lâuNúi sông bờ cõi đã chiaPhong tục Bắc Nam cũng khácTrải Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lậpCùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phươngTuy mạnh yếu có lúc khác nhauSong hào kiệt thời nào cũng có” Tiểu thuyết chương hồi khai phát Bốn bộ tiểu thuyết tiêu biểu của thời Minh Thanh lần lượt được truyền vào Việt Nam, trong đó “Tam Quốc diễn nghĩa” có ảnh hưởng lớn nhất. Theo “Bắc sứ thông lục” Ghi chép khi đi xứ Bắc triều của Lê Quý Đôn, từ năm 1760 đến 1762, ông đi sứ Trung Quốc, đã được đọc “Tây Du ký”, “Tam Quốc diễn nghĩa”… Khi trở về Việt Nam Lê Quý Đôn còn đem theo một bộ “Phong thần diễn nghĩa”. Lúc đó Việt Nam thường lấy các tích truyện trong các bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc viết thành các vở kịch. Hiện nay ở Bảo tàng Anh có lưu giữ hơn 50 kịch bản khắc gỗ của Việt Nam, trong đó có 9 vở có niên đại trước thế kỷ 19, là liên quan đến các câu chuyện Tam Quốc. Các vở kịch gồm có “Tam cố mao lư”, “Giang hữu cầu hôn truyện”, “Hoa chúc truyện”, “Kinh Châu phó hội”, “Hoa Dung đạo”, “Tiệt giang truyện”, “Đương Dương Trường Bản”… Bộ tiểu thuyết kinh điển “Tam quốc diễn nghĩa” có ảnh hưởng rất lớn đến văn học cổ điển Việt Nam, được các nhà tiểu thuyết gia Việt Nam coi là mẫu mực trong thể tiểu thuyết chương hồi, lịch sử. Bộ tiểu thuyết lịch sử chữ Hán đầu tiên của Việt Nam, đặt nền móng cho dòng văn học tiểu thuyết lịch sử Việt Nam là “Hoàng Việt xuân thu” ra đời vào giữa thế kỷ 15, gồm 60 hồi, chia làm 3 quyển thượng, trung, hạ, mỗi quyển 20 hồi. Bộ sách miêu tả giai đoạn lịch sử từ triều Hồ đầu thế kỷ 15 đến khi Lê Lợi lập ra nhà Hậu Lê. Tình tiết không phải quá hấp dẫn người đọc nhưng cũng khá hay. Trong “Hoàng Việt xuân thu”, mưu sỹ của Lê Lợi là Lê Thiện mà chính sử rất hiếm nhắc đến, là một nhân vật quan trọng. Ông là người hiến rất nhiều kế hay giúp Lê Lợi đánh thắng quân Minh như “Đầu thư thọ kế”, “Quyết sách công thành”, “Tượng trận thiêu đồn”, “Ngọc nhụy dụ địch”… Ông túc trí đa mưu, nhìn xa trông rộng, tính toán trong trướng, quyết thắng ngàn dặm, có thể so sánh với Gia Cát Lượng trong “Tam quốc diễn nghĩa”. Hai trăm năm sau, tiểu thuyết lịch sử cổ điển Việt Nam đạt đến đỉnh cao với bộ “Hoàng Lê nhất thống chí”. Đây là bộ tiểu thuyết viết vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, tương ứng với những năm cuối Càn Long và đầu Gia Khánh nhà Thanh Trung Quốc. Nội dung chủ yếu kể về sự diệt vong của triều Hậu Lê và cuộc khởi nghĩa Tây Sơn của họ Nguyễn. Bộ sách có 17 chương hồi, Ngô Thì Chí viết 7 hồi đầu, sau đó Ngô Thì Du viết tiếp 10 hồi, Ngô Thì Nhiệm biên tập chỉnh lý. Do ba anh em họ Ngô đều trải qua thời đại miêu tả trong tiểu thuyết, tận mắt thấy nhiều sự kiện lịch sử nên bộ sách đảm bảo được sự thống nhất về nghệ thuật tiểu thuyết và sự thực lịch sử. “Hoàng Lê nhất thống chí” mang đậm sắc thái số mệnh. “Thiên mệnh” này dường như đang chi phối tiến trình phát triển lịch sử chứ không phải con người. Nhân vật trọng điểm mà bộ tiểu thuyết xây dựng là Nguyễn Hữu Chỉnh, khởi đầu làm môn khách của Diệp Quận phủ. Thầy ông là Hoàng Tố Lý đảng Đặng Phi bị giết chết trong cuộc chiến quyền lợi, Chỉnh trốn chạy đến Tây Sơn được anh em Nguyễn Nhạc trọng dụng. Sau đó ông dẫn quân Tây Sơn vào Thăng Long, có công bảo giá, được thiếu Chúa coi trọng, trở thành nhân vật quyền lực trung tâm. Ông quyền ngang vua, thế nghiêng thiên hạ, mọi người không dám liếc nhìn, cuối cùng bị quân Tây Sơn giết. Nhân vật ỷ thiên tử để lệnh chư hầu này có bóng dáng của Tào Tháo trong “Tam quốc diễn nghĩa”. Nhưng trong “Tam quốc diễn nghĩa” chỉ làm nổi bật lên một mặt “gian hùng” của Tào Tháo, bỏ qua tính phức tạp của tính cách nhân vật. Tính cách nhân vật Nguyễn Hữu Chỉnh trong ”Hoàng Lê nhất thống chí” được phản ánh như thực, một mặt rất có tài năng, công lao, một mặt tự tư tự lợi, tham lam tàn bạo. Rõ ràng hình tượng nhân vật này phong phú hơn hình tượng Tào Tháo nhiều. Có thể thấy, các nhà tiểu thuyết gia của Việt Nam không chỉ học theo tiểu thuyết Trung Quốc mà có nhiều thủ pháp nghệ thuật vượt hơn Trung Quốc. Bất luận thế nào, di sản văn học chữ Hán Việt Nam cũng trở thành một bộ phận của chỉnh thể văn học cổ điển Á Đông. Ngày nay, Việt Nam đã sử dụng ký tự La-tinh, tuy tiện phổ cập, dễ đọc, dễ học nhưng nhưng cũng gây ra nhiều điều đáng tiếc. Chữ Hán bị đoạt dứt khiến rất ít người có thể tiếp cận với kho tàng văn học, văn hóa truyền thống. Đó cũng là sự đứt đoạn trong mạch văn hóa truyền thống và hiện đại. Nếu không nối được mạch đứt văn hóa truyền thống này thì như cây không gốc, như nước không nguồn. Con người, dân tộc không có bản sắc riêng thì rất dễ bị biến dị, bị hòa tan trong quá trình toàn cầu hóa như hiện nay. Nam Phương biên soạn
Nhớ lúc bấy giờ đâu là năm 1928, tôi ở Sài Gòn có viết mấy bài bằng chữ Hán, ký tên Khải Minh Tử, gửi cho Hoa kiều Nhật báo ở Chợ Lớn, được họ lần lượt đăng tải và có để lời khen tặng ở một cái mào đầu. Trong mấy bài ấy có một bài đầu đề giống như đầu đề trên đây, đại ý tôi khoe với người Tàu rằng văn học chữ Hán ở nước Việt Nam thuở xưa phát đạt lắm. Tôi lược cử ra những thi văn đời Lý, đời Trần cho đến đời Nguyễn gần đây. Cuối cùng, tôi cho họ biết rằng các nhà văn chữ Hán xứ này có một cái đặc sắc là hay tự tạo ra văn thể mới. Tức như Thu dạ lữ hoài ngâm 秋 夜 旅 懷 吟 làm bằng thể lục bát gián thất; lại hai bài ca trù một bài đề là Bùi viên đối ẩm 裴 園 對 飲 của Nguyễn Văn Thắng; một bài đề gì và của ai không biết, mở đầu là Phong thanh nguyệt bạch, Tô Đông Pha xích bích chi du… 風 清 月 白 , 蘇 東 坡 赤 壁 之 遊 … Các văn thể ấy có phải là chính bên Tàu không hề có, mà nhờ tác giả Việt Nam chế tạo ra làm cho cái kho văn học chữ Hán thêm giàu? Lại nhớ như bài ấy, tôi đã có lần dịch ra quốc ngữ đăng lên một tờ báo nào đó mà tôi quên.[1] Lần này tôi viết bài này ở đây, tuy đầu đề giống nhau mà lập ý thì khác. Từng có người nói Lòng ái quốc không thể cứ một mực, có khi bởi nó mà mình nói tốt cho nước mình, cũng có khi bởi nó mà mình lại nói xấu cho nước mình. Hai lần tôi viết đây, chính tôi cũng không tự biết có phải bởi lòng ái quốc hay không; tôi chỉ thấy rằng lần trước viết bằng chữ Hán, đăng báo Tàu, đối với người Tàu, tôi có ý tuyên truyền cho tổ quốc Việt Nam; lần này viết bằng chữ ta, đăng báo ta, tôi muốn chỉ cho đồng bào thấy cái chân tướng của văn học cổ xứ mình. Như vậy chẳng là mâu thuẫn nhau? Tôi tưởng chả có gì đến nỗi. Một cái mề đay, hôm qua cho người ngoại quốc xem, tôi chỉ đưa bề mặt, hôm nay cho người bản quốc xem, tôi đưa luôn cả bề trái nữa, thế thôi. Trước hết tôi muốn bạn đọc biết rằng, viết bài này, tôi rứt không có ý chê hay trách các bậc văn sĩ tiền bối xứ ta. Nếu có những chỗ chỉ trích ít nhiều khuyết điểm của họ là chính để thấy rằng nền văn học của một nước nếu không lập lên trên tiếng nói của nước ấy thì đừng có mong nó được vững bền và rực rỡ. Người nước Nam, nói thì nói tiếng nước mình, viết thì viết chữ nước khác, tay còn không theo được miệng thay, bảo sao lời cho đạt được ý? Chính vì đó mà văn học chữ Hán của ta đã không thành ra một văn học chân chánh xứng với danh từ nó như của Trung Hoa. Ấy là một cái lầm chung của cả một thời đại từ xưa, chứ chẳng phải cái dở, cái bất tài riêng của từng người một mà đáng để cho chúng ta ngày nay chê hay trách vậy. Cái văn học cổ ấy hiện nay đã tiêu diệt đi, nhường chỗ cho văn học quốc ngữ, đó thật là một điều may mắn cho dân tộc chúng ta. Tuy vậy, đã có quan hệ với nhau một ngàn năm, trong cơn vĩnh biệt, chẳng nhiều thì ít, nó há lại chẳng có cái gì làm cho ta quyến luyến? Tôi muốn nói đương lúc văn học chữ Hán của người Việt Nam tàn tạ, đáng lẽ, trong nó, nếu có tác phẩm gì hay, cần phải dịch ra quốc ngữ để làm hòn đá tảng, không thì cũng một viên gạch, một tấm ngói cho cái lâu đài văn học mới sau này. Nhưng than ôi! Theo tôi thấy thì hình như không có, và nếu có cũng ít lắm! Cả thảy chỉ một món lịch sử, bòn đãi lắm may ra còn hữu dụng; kỳ dư, những thi, những văn, những tiểu thuyết, cái đáng gọi là văn học thực mặt, thì lại vắng vẻ làm sao! Thử hỏi từ thời Lý đến nay có một cuốn sách nào về hạng ấy có thể đại biểu cho một thời đại hay cho một cá nhân mà bây giờ chúng ta cần phải dịch ra mới được? Thật không có! Người Pháp sang đây, muốn biết văn chương tiếng An Nam thế nào thì họ đã dịch Truyện Kiều của Nguyễn Du ra, vì nó xứng đáng đại biểu cho tiếng An Nam; còn chúng ta, chúng ta muốn biết văn chương chữ Hán của tổ tiên mình trong khoảng một ngàn năm vừa qua thì lại không tìm được một cuốn sách nào mà dịch hết! Đó chẳng phải một cái chứng cứ hiển nhiên, đủ thấy văn học chữ Hán của ta hồi trước còn ở dưới mực thủy bình? Nhưng không có thể chê trách những người học và viết chữ Hán trong một ngàn năm ấy được. Là vì chữ Hán không đủ dịch hết tiếng nói An Nam, không đủ ghi hết sự vật trong xã hội An Nam; ý tưởng của người An Nam không ngẫm nghĩ và phô bày bằng nó, thì làm sao hai đằng thân thiết với nhau cho được? Học sách vở của thánh hiền ngoại quốc, rồi nghĩ và viết ra cũng theo tư tưởng của thánh hiền ngoại quốc; những kẻ ấy khi họ hạ bút, họ có thể quên cả sự vật chung quanh mình và quên luôn cả mình nữa; những tác phẩm của họ không đại biểu cho thời đại được mà cũng không đại biểu được cho cá nhân, là lẽ tất nhiên. Cái công dụng của văn học là ở sự biểu hiệu và phê bình; mà, cho được biểu hiệu và phê bình, người mình lại dùng một thứ chữ không quen, không sành, hóa ra mất cả hai cái công dụng ấy. Chữ Hán ở bên Tàu lập nên nền văn học thế nào, còn ở bên ta thế nào, chỗ đó, phần nhiều người mình còn chưa thấy đến nơi. Ở bên Tàu tuy cũng có văn chương khoa cử, tức những bài làm để đi thi, lại cũng có văn chương thù ứng, tức như ở ta câu đối bức trướng; nhưng thứ văn chương ấy, họ không kể cho vào văn học. Văn học của họ đại khái chia làm hai hạng một về nghĩa lý, là những tác phẩm có quan hệ với kinh sử học thuyết; một về từ chương, là những tác phẩm thuần có tính chất mỹ văn. Ở đây, những người xưng là đại nho, như Chu Hy, Vương Thủ Nhân, phải có những trứ thuật về hạng trên; những người xưng là văn hào, như Hàn Dũ, Tô Thức, phải có những trứ thuật về hạng dưới. Nước ta, về hạng trên, phải kể như là không có. Vì dù có mà nó thấp thỏi, vụn vặt, không ra gì, thì cũng không kể được với ai. Cuốn Nho giáo 儒 教 của Trần Trọng Kim mới xuất bản gần đây, cho đi rằng nó không hoàn toàn nữa, thử hỏi một ngàn năm nay đã có người An Nam nào làm được cuốn sách bằng Hán văn nào như nó? Minh đạo 明 道 mười bốn thiên của Hồ Quý Ly, dám nghi bốn điều trong Luận ngữ 論 語 và công kích Tống nho, có lẽ còn đỡ đỡ, nhưng tiếc thay lại không truyền! Ngoài ra, những sách như Quần thư khảo biện 群 書 考 辩 của Lê Quý Đôn cùng những bài biện thuyết ngăn ngắn về sách xưa như trong tập Vĩ giã 葦 野 thì chưa hề phát minh được nghĩa gì to tát, chỉ đáng coi là một mớ tháp ký của học sinh, chẳng có giá trị là bao. Hồi nhà Trần có Chu An, trước đây bờ một trăm rưỡi năm ở Gia Định có Võ Trường Toản, đều là bậc đại sư nho, nổi tiếng như cồn, mà rủi cho dân tộc này làm sao, các ngài lại chẳng để lại một chữ gọi là có! Về hạng dưới, từ chương, để rồi dưới đây tôi sẽ nói đến. Ở đây tôi muốn cho bạn đọc biết ngay thử trong một ngàn năm ấy người mình học chữ Hán đã có sở đắc những gì. Hầu hết người đi học ở nước ta chỉ biết có một lối văn khoa cử. Xưa nay những người nổi tiếng học giỏi và hay chữ đều chỉ bởi nhớ nhiều điển cố để làm bài và làm bài hay. Cho đến các cụ Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng gần đây cũng đều thế cả. Tôi còn nhớ trong sách dã sử có một nơi chép truyện ông Bảng nhãn gì đó ở làng Mộ Trạch, lúc chưa đỗ, đã lừng tiếng một thời. Một hôm có vị danh sĩ gặp ông, muốn thử tài, ra cho một bài phú, đề là Kỳ lân du uyển hựu 麒 麟 遊 苑 囿. Tức thì ông cất bút thảo ngay bốn câu mở Qui phi xuất lạc, long bất trình hà, y bỉ hữu hùng chi quốc, đô vu trác lộc chi a 龜 非 出 洛 , 龍 不 呈 河 , 意 彼 有 熊 之 國 , 都 于 涿 鹿 之 阿[2]. Vị danh sĩ kia thấy viết đến đó đã kinh hoàng sửng sốt, bái phục là thiên tài rồi, không để làm hết bài nữa! Xem ý người chép sử như cho cái việc ông Bảng nhãn làm đó là một kỳ công trong học giới và bốn câu phú đó là một kiệt tác trên văn đàn, không thể không trịnh trọng chép vào sách của mình để truyền cho hậu thế! Đến các ông trạng, như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền, ông nào cũng sính câu đối, đã làm cho một nhà viết văn khảo cứu, ông Trần Thanh Mại, có lần phải gắt lên trong một bài ở báo Phụ nữ thời đàm. Rồi đến Nguyễn Thị Điểm, một nữ tài tử nổi danh thuở Hậu Lê, cũng tại câu đối mà thôi Bạch xà đương đạo, Quí bạt kiếm nhi trảm chi; Hoàng long phụ chu, Vũ ngưỡng thiên nhi thán viết 白 蛇 當 道 , 季 坺 劍 而 斬 之 , 黃 龍 負 舟 , 禹 仰 天 而 嘆 曰 cùng với Đối kính họa my, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm; Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân 對 鏡 畫 眉 , 一 點 翻 成 兩 點 , 臨 池 玩 月 , 隻 輪 轉 作 雙 輪[3], thế là đã rất mực tài tình, làm cho tác giả Nam hải dị nhân liệt truyện tỏ ý phục lăn ra! Giữa cuộc bang giao hai nước, muốn khoe tài văn học của nhau, người ta cũng đã sính chữ Hán một cách oái oăm đáo để. Đây là hai truyện có chép trong Tiền biên liệt truyện 前 編 列 傳 Dưới triều chúa Nguyễn Hy Tôn,[4] chúa Trịnh lấy danh nghĩa vua Lê, sai sứ mang tờ sắc vào phong cho chúa Nguyễn chức Thái phó quốc công. Bấy giờ Chúa Nguyễn có vị mưu thần Đào Duy Từ khuyên hãy tạm nhận rồi sau sẽ trả. Đến khi trả sắc, Duy Từ vẽ làm một cái mâm đồng hai đáy, bỏ tờ sắc vào trong, kèm một mảnh giấy có viết mười sáu chữ, luôn với lễ vật, sai sứ đem ra bắc dâng Chúa Trịnh. Sau, cái mâm đồng khui ra, thấy mười sáu chữ ấy là Mâu nhi vô dịch, mịch phi kiến tích, ái lạc tâm trường, lực lai tương địch 矛 而 無 腋 , 覔 非 見 跡 , 愛 落 心 腸 , 力 來 相 敵 Chúa Trịnh cùng cả đình thần đều chẳng hiểu nghĩa chi. Chỉ một mình Thiếu úy Phùng Khắc Khoan biết được mà thôi, ông ấy giải ra thành bốn chữ Dư bất thụ sắc 予 不 受 敕, nghĩa là ta chẳng nhận lời sắc.[5] Lần khác, dưới triều Chúa Nguyễn Thái tôn[6], người Trịnh muốn thử nhân vật Nam triều, bèn đưa vào tặng một cái trống lớn với một phiến gỗ vuông dài chừng một thước, trên mặt gỗ viết ba chữ Hồ bất thực, 狐 不 食 thếp vàng. Chúa Nguyễn hỏi khắp mặt triều thần, không ai biết gì cả. Sau hỏi đến Võ Đình Phương là tay bác học thời ấy, Đình Phương thưa rằng “Ba chữ ấy chỉ là người Bắc nói lái để thử ta có biết không mà thôi. Hồ bất thực 狐 不 食 nghĩa là cáo chẳng ăn. Mà cáo chẳng ăn thì cáo gầy. Cáo gầy là cây gạo. Vậy phiến gỗ này nó là bằng cây gạo”. Nghĩa lý mắc mỏ chỉ có thế; còn cái trống thì khi đem đánh, nó cũng chẳng khác gì cái trống thường. Từ đoạn dẫn dã sử đến đây, tôi muốn trưng ra mấy cái chứng cứ để thấy rằng cái sở đắc của mình học chữ Hán chỉ có thế. Chỉ có một cái tiểu xảo trong văn học, tiếng Pháp gọi là “Jeu de mots”[7] là người mình hơi có khiếu sở trường. Thì đó, bốn câu phú của ông Bảng nhãn, hai câu đối của Nguyễn Thị Điểm, mười sáu chữ nọ với ba chữ kia làm cho Phùng Khắc Khoan và Võ Đình Phương có dịp trổ tài, hết thảy đều là một cách “Jeu de mots” chứ có gì lạ! Ở nước ta, kẻ học khi chưa đỗ thì chăm về văn khoa cử, khi đỗ rồi thì chăm về văn thù ứng. Hay chữ có tiếng nhất nước như ông Vũ Phạm Hàm cũng chỉ nhờ bài phú Điệu cao sơn đại xuyên trong khoa đậu hội, như ông Phan Bội Châu cũng chỉ nhờ bảy bài kinh nghĩa kiêm trị trong khoa đậu giải nguyên. Ông Vũ Phạm Khải được đức Dực Tôn ban khen là thế, tưởng có cái đặc sắc thế nào, ngờ đâu đọc văn tập của ông làm cho mình thất vọng Nhan nhản, hết bài tự tặng người này, đến bài khải dâng người khác, té ra trời phó cho ông ấy cái văn tài lỗi lạc là chỉ đi thù phụng thiên hạ mà thôi! Vậy nếu tôi nói một ngàn năm nay người An Nam làm văn chữ Hán chỉ chuyên có hai lối khoa cử và thù ứng, và trong văn học, họ chỉ sở trường một cách “Jeu de mots” mà thôi thì cũng chẳng quá nào! Nói về thi, văn, tiểu thuyết, không kể phần dở, dù phần hay là phần rất ít đi nữa là của người mình cũng không sánh kịp của người Tàu. Bởi chúng ta cứ rập theo khuôn sáo họ, hứng lấy cặn bã họ, người An Nam mà văn chương chẳng có một chút gì là đặc tính của An Nam, thành thử chúng ta, dù đến trên loài mỹ văn ấy, cũng không lập nổi một nền văn học riêng cho mình. Một vài ông vua nước Nam đã làm cho thần dân của các ngài tưởng lầm rằng văn học nước mình cũng ngang hàng với Trung Quốc. Sự thác giác ấy làm hại cho quốc dân từ lâu nay, cái hại chẳng phải nhỏ. Vua Lê Thánh Tôn một đêm ngự bóng mát chốn nội đình, trông lên trời thấy vầng trăng đương sáng tỏ bỗng bị che khuất bởi đám mây bay ngang, đám mây bay khỏi rồi, vầng trăng lại sáng tỏ như trước, cảm xúc làm nên hai câu 素 蟾 浩 浩 玉 盤 清 , 雲 弄 寒 光 暗 復 明 “Tố thiềm hạo hạo ngọc bàn thanh, vân lộng hàn quang ám phục minh”.[8] Thế mà ngài dám tự phụ rằng không ai làm được, cho đến Đỗ Phủ cũng không, chỉ một mình ngài làm được mà thôi. Ngài lại còn đem hai câu ấy so sánh với bốn câu giữa trong bài 錦 瑟 “Cẩm sắt”[9] của Lý Nghĩa Sơn mà nói rằng bốn câu ấy của Lý, về phần mầu lạ xinh xắn thì bằng hai câu của ngài, nhưng về phần sáng suốt trong trẻo thì hãy còn kém. Lần khác, Thánh Tôn phê bình hai câu của Thân Nhân Trung, quan đại học sĩ tại triều mình 瓊 島 夢 殘 春 萬 頃 , 寒 江 詩 落 夜 三 更 “Quỳnh đảo mộng tàn xuân vạn khoảnh, hàn giang thi lạc dạ tam canh”,[10] cũng hợm hĩnh rằng dù cho Lý Bạch, Đỗ Phủ, Âu Dương Tu, Tô Thức cũng vị tất đã nghĩ được ra. Mẩu truyện này có chép trong sách Việt sử thực lục cuốn 13, tôi nhớ mà thuật ra đây chứ không dịch đúng nguyên văn. Gần nay người ta còn truyền tụng hai câu thơ phê bình thi văn bản triều 文 如 超 适 無 前 漢 , 詩 到 從 緌 失 盛 唐 “Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán, thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường”[11] mà nói là của vua Thiệu Trị hay của vua Tự Đức. Của vua nào cũng thế, cái công hiệu thổi phỉnh lòng tự khoa của người nước cũng chẳng kém mẩu chuyện vừa kể của Lê Thánh Tôn. Dưới triều vua này, vũ công với văn trị đều cực thịnh. Bao lần đánh Chiêm Thành, Bồn Man, Lão Khoa, đánh đâu thắng đó, làm cho vua Tàu cũng phải nể. Sử chép ngày 27 tháng 8 năm Hồng Đức 11, sau khi đại phá Lão Khoa, vua nhà Minh có đưa sang một tờ sắc, nói “Vừa rồi tỉnh thần Vân Nam có tâu về, nói An Nam quốc vương đã vô cớ cử binh công phạt xứ Lão Khoa, hiện chưa lui binh, còn muốn sang xâm lược xứ Bát Bách Tức Phụ nữa. Vì vậy sắc sang hỏi vua nếu có, phải lui binh ngay; còn không thì phúc tấu lại, để triều đình xét và bắt tội kẻ man báo”. Liền ngày ấy vua Thánh Tôn họp triều thần lại thảo lời phúc tấu, đại ý nói “Có 13 tên dân bản quốc trốn sang bên Lão Khoa; nhân đó sai người đến tại biên giới đòi về, thì đã đem xe chở chúng về rồi; chứ còn những việc đánh Lão Khoa và Bát Bách Tức Phụ vốn không biết tới”. Bản phúc tấu ấy đưa sang, vua nhà Minh vẫn làm thinh, coi như là sự thực. Nhưng sự thực của sự thực là trước đó một năm, tháng 8 năm Hồng Đức thứ 10, vua Thánh Tôn quả có sai các tướng đem mười tám vạn binh, chia làm năm đạo đi đánh Lão Khoa, vào tận đô thành nước ấy, đuổi vua, bắt nhân dân của họ, rồi còn đánh dốc đến ranh sông Trường Sa, nơi Lão Khoa giáp với Diến Điện, khi được văn thơ người Diến kháng nghị mới chịu rút quân về. Ấy, vua Thánh Tôn ngài đã quen mui, tưởng việc văn cũng như việc võ về việc đánh Lão Khoa, có nói làm không mà vua Minh cũng nghe được, thì về việc thi văn, dở nói làm hay, người Tàu còn có ai dám cãi lại ngài? Nhưng “văn chương là việc ngàn xưa”, dở hay còn có đó, không ai nói theo ý riêng mình được. Thực ra thì câu thơ của vua không đến nỗi dở chứ nó khí tầm thường quá. Nội bảy chữ đầu đã trùng điệp với nhau rồi “tố thiềm hạo hạo” có khác gì với “ngọc bàn thanh”, chỉ có một nghĩa là vầng trăng sáng. Thế mà câu dưới còn tiếp hai chữ “hàn quang” nữa, cũng lại sáng trăng! Về ý thì rất xoàng, có gì lắm mà bảo không thi nhân nào làm nổi? Đến đem mà sánh với bốn câu của Lý Nghĩa Sơn thì thật là quá phận. Bốn câu này hay mà có vẻ thần bí, đến nỗi từ đời Tống đến nay có bao nhiêu nhà chú thích đã giải nghĩa không giống nhau. Còn câu của vua rất dễ dàng, hễ ai biết chữ là hiểu được. Nó vốn không đồng một tánh chất, đem mà sánh nhau, khác nào đem cái đền Ngọc Sơn giữa hồ Hoàn Kiếm sánh với Kim tự tháp bên Ai Cập! Sau nữa, câu của Thân Nhân Trung, nếu cho vế trên là được thì vế dưới thật không xứng. Nhất là hai chữ “thi lạc” e đến không có nghĩa. “Thi” làm sao lại “lạc” được? Chỉ hai chữ không có nghĩa đủ làm hỏng cả câu. Thế thì hẵng làm cho có nghĩa đã rồi hãy nói chuyện bầy vai với Lý, Đỗ, Âu, Tô! Văn học chữ Hán đến triều Nguyễn, đáng gọi là thịnh hơn các triều trước; nhưng nếu bảo vượt quá cả Hán, Đường thì lố quá. Nguyễn Văn Siêu còn có Phương Đình văn tập truyền lại, thức giả còn có thể đem đọ với văn Tiền Hán thử ra sao. Tùng Thiện Vương có tập thi Thương Sơn, Tuy Lý Vương có tập thi Vĩ Giã, muốn biết giá trị nó đối với Thịnh Đường thế nào, đọc qua thì biết. Tôi thì tôi tin quyết rằng Hán Đường là kẻ sáng tạo, Siêu, Quát, Tùng, Tuy là kẻ học đòi; không bao giờ kẻ học đòi lại vượt qua kẻ sáng tạo cho được. Nói cho công bằng ra thì trong ngần ấy tác giả, duy có Cao Bá Quát, là cả thi lẫn văn đều đáng sắp ngang hàng với đệ nhất lưu tác giả ở Trung Quốc mà không hổ mà thôi. Rủi cho ông, vì mang tội “đại nghịch” nên tập không được in, tên họ bị vùi dập đi hơn nửa thế kỷ đến gần nay mới có người nhắc đến! Những lời tự khoa thái quá ấy cần phải cải chánh. Sau khi cải chánh chúng ta mới có thể tìm thấy cái mực thực của văn chương chữ Hán nước mình. Đại để trong các món, duy món thi, người mình còn có thể làm được. Vì thi có khi dùng một số chữ rất ít, chỉ mười mấy hay vài mươi chữ cũng thành một bài, không cần phải có cái lực lượng hùng vĩ mới làm nổi; lại trong thi, về mặt văn pháp cũng rộng rãi, không nhặt nhiệm lắm như tản văn. Hai điều kiện khoan dung đó thích hợp với cái tài vận dụng chữ Hán của người An Nam, cho nên về văn chương chữ Hán, người An Nam đã làm món thi nhiều hơn các món khác, và về món thi cũng có sở trường hơn các món khác. Trừ ra thơ của một hạng thi nhân gọi là “thợ thơ” thì trong làng thơ chữ Hán của ta không phải không có thơ hay. Nhất là vào hồi Lý Trần, bấy giờ kẻ học chưa nhiễm phải cái độc khoa cử nên trong ngâm vịnh thường có nhiều tánh tình và phong thú. Bạn đọc hãy tìm chứng cứ trong pho Hoàng Việt thi tuyển. Tiếc thay hạng thơ ấy, chúng ta chỉ có thể thưởng thức ở các tác phẩm rải rác mà không thể chỉ hẳn ra được một tác giả nào. Mãi đến gần đây mới được một Cao Bá Quát. Ông này, theo thời luận thì nổi tiếng về văn, nhưng văn của ông ít truyền lắm, ngày nay chỉ còn bộ Cao Chu Thần thi thảo chép tay, ấy là thơ của ông, chừng được ba bốn trăm bài. Ba bốn trăm bài ấy giá ở bên Tàu thì nó đã được in ra, làm cho tác giả nhảy lên đứng ngang hàng với Đỗ Thiếu Lăng, Tô Đông Pha chẳng hạn, nhưng ở nước ta phải đành mai một! Đọc Cao Chu Thần thi thảo, thấy cái thân thế, cái phẩm cách, cái tư tưởng của tác giả nó mà khiến mình trạnh lòng tương cảm ở sau sáu, bảy mươi năm. Con người ấy mà ở vào thời đại ấy trong đất nước này, nếu chẳng phải thi đỗ làm quan cho tột bực đi thì còn làm gì nữa mà không làm giặc! Ngoài ra, cũng có những thi tập của những người khác đã được ấn hành, nhưng lại không vì cớ ấn hành mà không mai một! Hạng thơ ấy nói vượt qua Thịnh Đường thì khí quá, dù cho giống hệt với Thịnh Đường đi nữa mà không có ngụ một chút tánh tình quan hệ mảy may với thời đại thì cũng bị đào thải bởi luật tự nhiên. Trái lại, một vài câu xuất sắc, khiến người ta cảm được, như “Học đắc trường sinh bí, bất cầu thiên hạ văn” thơ hái thuốc[12], “Sơn nhân tự lai vãng sơn thâm nhân bất tri” thơ đi đường núi của Nguyễn Hương[13]; “Cô phẫn khí thành thiên khả vấn, độc tinh nhân khứ quốc cơ không” thơ vịnh Khuất Nguyên của Phạm Lam Anh thì lại nhờ được người ta truyền tụng mà còn ghi trong sử sách.[14] Văn, tản văn hay biền văn cũng vậy, như trên đã nói, khó hơn thi, cho nên người mình ít làm và làm cũng ít hay. Phú của Mạc Đĩnh Chi thì sao cho bằng phú của Giả Nghị, của Tô Thức? Ký của Trương Hán Siêu thì sao cho bằng ký của Hàn Dũ, của Âu Dương Tu? Chính người An Nam lại ưa phóng tụng văn Tàu mà nhãng quên văn nước mình, chẳng phải là không có cớ. Hịch của Trần Quốc Tuấn, đại cáo của Nguyễn Trãi mà được chúng ta coi làm báu, chẳng qua nhờ trong đó nhuộm đậm màu quốc gia đấy thôi, chứ cứ kể văn chương còn chưa thấm vào đâu. Tiểu thuyết, không có trường thiên, chỉ có đoản thiên mà cũng không được đúng với tên ấy lắm, tức như Truyền kỳ mạn lục và Vân nang tiểu sử[15] Những tác phẩm ấy, thứ thì tuyệt bản rồi, thứ thi còn chép tay, nhưng, giả sử từ trước người ta đã in ra cho thật nhiều là cũng không bán tranh nổi với Liêu trai chí dị hay Tử bất ngữ của Tàu. Kể ra thì hết thảy văn chương các món, đằng lượng cũng như đằng phẩm, ta đều còn kém Tàu xa. Cái kém ấy đáng lắm, không ai trách được. Chỉ trách sao còn có người không chịu là kém mà lại kiếm lời tưng bốc nhau, nói trái với sự thực, đã gieo một sự mậu ngộ lớn vào trong óc mọi người luôn với sự kiêu căng nữa. Bài này vì đầu đề là khái luận, cho nên về các tác phẩm và tác giả không thể nói tường tận hơn, tôi cũng lấy làm đáng tiếc, nhưng tôi phải ngừng bút ở đây để bắt đầu kết luận đi. Lúc hai mươi tuổi, tôi được đọc cuốn Việt Nam vong quốc sử ở Nhật Bản gởi về; ngoài cái cảm tưởng mới lạ nẩy ra cho tôi lúc bấy giờ, tôi còn nhờ đó bắt đầu có một điều xét nhận về sự người An Nam viết chữ Hán. Cuốn sách ấy, ông Lương Khải Siêu đứng tác giả, nhưng cả phần chính văn do cụ Phạn Bội Châu soạn, ông Lương chỉ viết mấy tờ đầu như cái tiểu dẫn. Trong phần như tiểu dẫn ấy, ông Lương có nói một cậu tợ hồ phân bua với độc giả người Tàu mà rằng, trong sách nếu có chỗ văn không được nhã thuần, ấy là vì muốn để y cho còn cái chơn tích của tác giả, cụ Phan, nên không hề sửa chữa một chữ nào. Đọc câu phân bua đó tôi phải ngẩn người ra, tôi phải đánh dấu trong đầu một sự chú ý rất lớn à, té ra học giỏi như Phan Bội Châu của An Nam, văn hay như Phan Bội Châu của An Nam mà viết ra người Tàu còn bảo là có chỗ không được nhã thuần! Nhã 雅 là nhã nhặn, đối với tục; thuần 馴 là như con thú rừng đem về tập luyện đã lành đi dompté. Viết văn mà không được nhã thuần, nghĩa là còn pha giọng tục, còn như con voi lung lăng chưa chịu vố, bành; con ngựa hay cất hay đá, chưa chịu cương, khớp. Người ngoại quốc viết tiếng Pháp, có nhiều câu không sai mẹo, không tối ý, người Pháp xem vẫn hiểu nhưng không cho là được, gọi là pasfrançais. Thì khi người ngoại quốc viết văn Tàu mà bị phê là không được nhã thuần, cũng có nghĩa như thế, nghĩa là paschinois vậy. Sau khi tôi thấy ông Lương Khải Siêu phê văn cụ Sào Nam rằng còn có chỗ paschinois, tôi bèn để ý xem lại văn của những người An Nam khác viết thì quả nhiên thấy ra có nhiều chỗ paschinois lắm. Lấy ví dụ gần đây cho bạn đọc có thể kiểm soát được, thì không đâu bằng lấy ở phần chữ Hán của tạp chí Nam phong. Trong đó nhan nhản những chữ người ta đã dùng chẳng ra Tàu chút nào cả. Nhất là chữ nhưng 仍 đem dùng như chữ nhiên 然 , chữ sí 啻 đem dùng như chữ thí 譬 thì đến ông Lương Khải Siêu cũng không hiểu nếu hồi còn sống ông có đọc! Nhưng cái thời đại báo Nam phong là thời đại chữ Hán ở nước ta đã tàn tạ rồi, không đáng trách lắm; tôi xin trình bạn đọc một bộ sách do Sử quán làm ra hồi Tự Đức mà trong đó còn có nhiều câu đầy những lỗi về văn pháp, không thể dung thứ được. Ấy là bộ Đại Nam chánh biên liệt truyện sơ tập, biên tập xong năm Tự Đức thứ năm, do hai ông Trương Đăng Quế và Võ Xuân Cẩn làm tổng tài, còn các quan toản tu toàn là người khoa giáp. Đây, tôi trích ra một vài cái lỗi của sách ấy Cuốn 23, truyện Lê Văn Duyệt, tờ 31, chỗ nói chuyện ông Duyệt để năm chục quan tiền giữa nhà, thình lình mất đi, đi tìm thì thấy “có người lót tiền mà ngồi trên nóc nhà” mà biên rằng 有 屋 上 者 載 錢 踞 坐 hữu ốc thượng giả tại tiền cứ tọa thì thật là không có nghĩa. Vì theo văn pháp, khi đặt 有 …. 有 cách ấy thì giữa nó phải có verbe mới được, mà ở đây chẳng có verbe nào hết. Nếu chữa lại 有 載 錢 踞 坐 於 屋 上 者 hữu tại tiền cứ tọa ư ốc thượng giả thì có nghĩa hơn. Cuốn 30, truyện Nguyễn Văn Nhạc, tờ 15, chỗ nói Nhạc nghe Huệ chết, chính mình đem hơn ba trăm liêu thuộc cùng em gái ra thăm, đi đến địa đầu Quảng Ngãi thì “bị viên đồn trưởng của Huệ ngăn lại” mà biên là 爲 惠 屯 將 阻 之 “vi Huệ đồn tướng trở chi” cũng lại không trôi nữa. Theo văn pháp, câu này muốn đặt lối actif thì nói 惠 屯 將 阻 之 “Huệ đồn tướng trở chi”; muốn đặt lối passif thì nói 爲 惠 屯 將 所 阻 “Vi Huệ đồn tướng sở trở”, chứ không ai lại đặt câu bằng lối passif lại còn để chữ 之 chi là chữ chỉ có thể dùng được trong câu actif mà thôi. Cuốn 31, truyện Cao Man, tờ 8, chỗ nói ba người em khác mẹ của vua Cao Man chạy sang Xiêm, bầy tôi cũ trong nước “có nhiều kẻ lẻn theo họ” mà biên là 多 有 潛 往 之 者 “đa hữu tiềm vãng chi giả” cũng không đúng mẹo. Theo văn pháp, 往 vãng là verbe intransitif, theo sau nó phải để chữ 焉 yên, không được để chữ 之 chi. Thế thì nên chữa lại 多 有 潛 往 焉 者 đa hữu tiềm vãng yên giả ; nhưng như thế, đúng mẹo mà chưa đủ nghĩa, vậy phải chữa nữa là 多 有 潛 往 從 之 者 “đa hữu tiềm vãng tòng chi giả”. Thôi, không lẽ cứ thế này mà kéo dây ra mãi, chỉ trích ba chỗ cũng là đủ rồi. Nhân tiện, tôi nắm lấy lẽ này làm kết luận Hơn một ngàn năm học chữ Hán, vẫn có nhờ nó lập cho ta một nền văn hóa khả quan, nhưng nếu nói ta đã lập nên trên thứ chữ ấy một nền văn hóa xứng đáng thì tôi tưởng rằng chưa chắc. Bởi một thứ chữ mà ta viết hãy còn chưa được nhã thuần, chưa đúng văn pháp, thì làm sao cho thành văn học được? Tội không tại người mà cũng không tại chữ. Tội tại người nước này mà lại dùng chữ nước kia! Bởi vậy tôi nói nước ta từ ngày có văn học quốc ngữ là một hạnh phúc ở đâu đưa đến cho chúng ta! Ở người ta, nước mất thì sợ cho chữ cũng theo mà mất; còn mình, trong khi nước mất lại có quốc văn sản xuất và mỗi ngày một thịnh, ấy chẳng phải là điều may mắn lạ? Nhân chữ Hán suy ra, tôi biết chữ Pháp rồi cũng thế. Cái trạng huống của văn học chữ Pháp ở nước ta mai sau ra thế nào, tôi có thể đoán biết từ hôm nay. Văn của ông Nguyễn Mạnh Tường hay của ông Phạm Duy Khiêm, mãi đến sau đây vài mươi năm rồi người ta sẽ tìm thấy nó pasfrançais cũng như văn cụ Sào Nam đã không được nhã thuần, của các quan Sử quán đời Tự Đức đã sai văn pháp! Thế thì sao người ta còn sính chữ Tây cũng như ngày xưa đã sính chữ Tàu? Rút lại, một thứ chữ ngoại quốc nào cũng chỉ hành dụng bởi sự nhu cầu của thời đại mà thôi, còn muốn lập nên văn học thì ắt phải là văn tự bản quốc mới được. Vậy chúng ta nên đồng thanh kêu Hỡi, người Việt Nam, trở về với quốc văn! PHAN KHÔI ▲ Tức là bài Văn học chữ Hán của nước ta đăng trên Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, số 169 22. 9. 1932 ▲ Nhân đề có chữ kỳ lân nên bài làm mỗi câu có tên một con vật để chọi quy, long, hùng gấu, lộc hươu; vì thế mà cho là hay, phục là tài. nguyên chú ▲ Xem sách Nam hải dị nhân liệt truyện về truyện ba người Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Thị Điểm. Ở đó có giải rõ nghĩa các câu đối này. ▲ Nguyễn Hy Tông tức là Nguyễn Phúc Nguyên ở ngôi chúa 1558-1612 ▲ Xem Nam hải dị nhân liệt truyện về truyện Đào Duy Từ. ▲ Nguyễn Thái Tông tức là Nguyễn Phúc Tần ở ngôi chúa 1648-1687 ▲ Jeu de mots chữ Pháp chơi chữ. ▲ Nghĩa là Mặt trăng sáng và trong, bị đám mây đùa bỡn làm cho tối lại sáng. ▲ Bốn câu giữa của bài Cẩm sắt Trang Sinh hiểu mộng mê hồ điệp, Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên. Thượng hải nguyệt minh châu hữu luy, Lâm Điển nhật hoãn ngọc sinh yêu. Xin khỏi thích nghĩa, vì khó quá mà lại lôi thôi nữa. ▲ Chắc nghĩa thế nào mà thích được! ▲ Nghĩa rõ rồi, không cần thích! ▲ Thơ của Nguyễn Hương, nghĩa là học được cái bí quyết sống lâu mà chẳng cầu cho thiên hạ biết mình. ▲ Nghĩa là người trong núi tự đi qua đi lại, vì núi sâu nên người ngoài chẳng ai biết. ▲ Thơ của Phạm Lam Anh ***, nghĩa là cái khí phẫn uất lồng lên, trời cũng có thể hỏi được; cái người một mình tỉnh đã đi rồi, trong nước trống trơn. Hai mẩu này đều thấy trong sách Đại Nam Triều Biên liệt truyện. ▲ Truyền kỳ mạn lục 傳 奇 漫 錄 của Nguyễn Dữ đời Hậu Lê; Vân nang tiểu sử 雲 囊 小 史 có in trong Nam Phong mấy số đầu.
Chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ và văn học viết tiếng Việt Trần Đình Sử Tiếng nói, chữ viết văn tự có mối quan hệ vô cùng mật thiết với văn học. Những thứ tiếng mà không có chữ viết đi kèm, không có tác phẩm văn học để ngưng kết thành những kiệt tác ngôn ngữ, sống trong tâm hồn người đời, thì sẽ có nguy cơ bị diệt vong. Theo tài liệu Bản đồ ngôn ngữ đang lâm nguy của tổ chức văn hóa khoa học giáo dục của Liên hiệp quốc UNESCO cho biết toàn thế giới có 7000 thứ tiếng, trong đó một nửa sẽ bị tiêu vong trong thế kỉ này. 80-90% số còn lại sẽ tiêu vong trong vòng 200 năm nữa. Tốc độ tiêu vong của ngôn ngữ còn nhanh hơn tốc độ diệt chủng của các loại thú quý hiếm trên trái đất. Cứ hai tuần trôi qua, trên thế giới có một ngôn ngữ diệt vong. Nhà ngữ học Mĩ David Harrison cho rằng ngôn ngữ là di sản giá trị hơn nhiều so với các di sản mắt thường ai cũng thấy như Kim Tự tháp, rừng Amazon…, bởi nó là di sản của nhân loại, trong đó kết tinh phương thức tư duy, phương thức tồn tại và kinh nghiệm sống của một tộc người. Tiếng nói chết chủ yếu do người nói ít dần, người nói thứ tiếng đó nói thứ tiếng khác nhiều hơn, do không có văn tự ghi lại, do không có tác phẩm văn học để đời. Văn học viết của bất cứ dân tộc nào đều hình thành trên cơ sở tiếng nói, chữ viết của tiếng đó, do đó việc sử dụng chữ viết có ảnh hưởng trực tiếp rất to lớn đến sự hình thành văn học viết dân tộc. Đối với nhiều nền văn học phương Tây, trong suốt thời kì trung đại, dưới sự thống trị của tiếng Latinh, văn học viết bằng tiếng dân tộc chưa xuất hiện. Phải đến thời Phục Hưng, A. Dante 1265 – 1321bắt đầu dùng tiêng Ý để sáng tác Thần Khúc, Người Anh với G. Chauser 1343 – 1400 dùng tiếng Anh sáng tác, M. Opitz 1597 – 1639, H. Grimmelhausen 1621 – 1676 dùng tiếng Đức dể sáng tác, từ đó mới bắt đầu văn học dân tộc các nước đó. Điều thú vị là cũng vào thế kỉ XV ở Việt Nam Nguyễn Trãi 1380 – 1442 đã mở đầu tập thơ bằng tiếng Việt, đánh dấu thời điểm ra đời của văn học Việt, phân biệt với văn học chữ Hán cũng vào một thời điểm với các nền văn học phát triển ở châu Âu. Tuy nhiên, từ tác phẩm đầu tiên đến sự hình thành đầy đủ các thể loại văn học dân tộc phải trải qua một chặng đường rất dài, trải qua nhiều thế kỉ, trong đó chữ viết đóng vai trò cực kì quan trọng. Mọi người đều biết, văn học Việt Nam hình thành đầu tiên bằng chữ Hán, một ngôn ngữ không phải của người Việt. Giai đoạn hai mớí xuất hiện văn Nôm với chữ Nôm, mãi đến cuối thế kỉ XIX mới hình thành văn quốc ngữ hiện đại nhờ có chữ quốc ngữ. Các giai đoạn phát triển văn học ấy đều dựa vào sự xác lập chữ viết. Chúng ta đã di thực toàn bộ ngữ văn Hán làm thành văn viết Việt Nam, từ ngôn ngữ, hệ thông thể loại văn bản, từ thể thức cấu tạo, phương thức tu từ cho đến hành văn, từ thể loại hành chính đến thể loại văn chương học thuật, thi, phú, làm thành nền văn học chữ Hán Việt Nam. Dĩ nhiên đó là quá trình hình thành dần dần qua các triều đại .Bài văn chữ Hán sớm nhất được coi là bài Bạch vân chiếu sơn hải của Khương Công Phụ, sau có người khẳng định là bài Nam quốc sơn hà, tương truyền của Lí Thường Kiệt, gần đây theo khảo chứng mới, có căn cứ khẳng định sớm nhất là bài Quốc tộ của nhà sư Đỗ Pháp Thuận 915 – 990, thế kỉ thứ X[1]. Còn văn học Nôm, hình thành trên cơ sở chữ Nôm, một thứ chữ, theo Nguyễn Tài Cẩn, hình thành vào cuối đời Trần, theo Nguyễn Quang Hồng, hình thành không thể muộn hơn thời nhà Lý thế kỉ XII . Thế nhưng văn học Nôm thật sự, được thể hiện qua Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi phải đến ba thế kỉ sau, thế kỉ XV mới xuất hiện. Ba thế kỉ sau, thế kỉ XVI, trên cơ sở tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, xuất hiện bản dịch ra chữ Nôm tương truyền của Nguyễn Thế Nghi, có thể coi là bản văn xuôi chữ Nôm đầu tiên trong văn chương Việt Nam. Từ thế kỉ XVI, trải qua rất nhiều quanh co, khúc khuỷu trong năm thế kỉ, phải đến đầu thế kỉ XX, với sự sử dụng chính thức chữ Quốc ngữ, thì văn học Việt Nam hiện đại nói chung và văn xuôi tiếng Việt nói riêng mới thực sự hình thành. Ở đây vai trò chữ viết hết sức quan trọng. Tại sao thơ Nôm phú Nôm phảt triển mà văn xuôi chữ nôm không phát triển? Đã ai nghiên cứu vấn đề này chưa? Sự hình thành văn học viết không đơn giản chỉ là có chữ viết rồi thì văn học viết tự nhiên xuất hiện theo chữ viết ấy, hay nói cách khác không phải chữ viết ghi nguyên xi lời ăn tiếng nói hàng ngày là có ngay văn học viết. Văn học viết như một hình thái biểu đạt, phân biệt với lời ăn tiếng nói khẩu ngữ hàng ngày và văn học truyền miệng. Văn viết phải hình thành trên cơ sở hệ thống chữ viết, mà sự hình thành chữ viết lại phải trên cơ sở hệ thống ngữ âm hình thành quy củ. Thế nhưng, tiếng Việt thời kì thế kỉ X – XII, theo các nhà ngôn ngữ học thuộc vào giai đoạn sơ thuỷ sau khi tách khỏi tiếng Việt Mường chung không lâu để trở thành thứ tiếng độc lập. Trạng thái sơ thuỷ thể hiện ở chỗ chưa hình thành cơ chế đơn tiết triệt để và chưa có đủ sáu thanh.[2] Do đó Văn học viết phải hình thành sau chữ viết một thời gian, bởi vì nó phải được mài giũa bằng văn tự, tạo thành quy tắc, thể thức thì mới thành văn học viết được. Chữ viết không phải chỉ là phương tiện ghi âm tiếng nói, không chỉ là phương tiện cố định lời nói, khắc phục tình trạng lời nói gió bay, làm cho lời nói được bảo tồn, mà còn là một phương thức tồn tại khác của ngôn ngữ. Nó làm cho văn viết tách khỏi tiếng nói phát ra âm thanh, khẩu ngữ, một tiếng nói không bao giờ tách khỏi âm thanh to nhỏ, ngữ điệu nói, nét mặt, động tác tay chân, ánh mắt…của người nói và ngữ cảnh cụ thể, tách khỏi không thời gian cụ thể để trở thành ngôn ngữ thuần tuý và có khả năng giao tiếp với muôn đời. Ngay văn quốc ngữ buổi đầu của Nam Bộ rất là quý giá, song sang đầu thế kỉ XX nói chung người ta không viết như thế nữa. Với chữ viết ngôn ngữ được trừu tuợng hoá khỏi người nói và người nghe cụ thể, được tự tổ chức thành văn bản, cô đọng, chuẩn hoá, phong phú thêm với những tín hiệu và phương tiện chỉ có trong văn viết. Có văn tự để viết thành văn bản thì mới có phần mở đầu, chuyển mạch, phần kết thúc. Lời nói khẩu ngữ chưa có các thành phần ấy một cách rõ rệt. Tất nhiên văn viết không tách khỏi mối dây liên hệ với ngôn ngữ khẩu ngữ hàng đó là nguồn sáng tạo vô tận. Hán văn là một tử ngữ, giống như tiếng La Tinh, tiếng Hy Lạp cổ, tiếng Nga cổ. Cho nên người Việt tiếp nhận và bảo lưu nguyên vẹn hình thức biểu đạt của nó, và người dùng buộc phải học thuộc nhập tâm,rồi tự mình viết theo mẫu sẵn, sự sáng tạo rất hiếm. Chỉ những bậc đại khoa uyên thâm mới có năng lực Hán sang Việt Nam trở thành tiếng Hán Việt, khác hẳn với Văn ngôn ít nhất là về âm đọc. Điều thú vị là trong khi văn ngôn đổi thay theo sinh ngữ của người Tàu, tiếng Hán Việt Việt Nam vẫn bảo lưu các âm cổ. Thơ ca Trung quốc cổ đại gieo vần theo âm cổ, đến người Trung Quốc hiện đại đọc thơ cổ của họ thì xảy ra tình trạng sai vần. Nhưng thơ ca Hán Việt với âm Hán Việt cổ, vẫn gieo vần theo nguyên điệu, không hề sai, do bảo lưu âm cổ du nhập vào từ đời nhà Đường. Với thứ chữ đó người Việt không thể tạo ra bất cứ thể loại nào mới so với văn học chữ Hán của người Hán.. Chữ Nôm được sử dụng trong hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống, nhưng không được phát triển, bởi không có trường dạy chữ Nôm, Mà muốn hiểu Nôm buộc phải thạo chữ Hán, bởi vì chữ Nôm cấu tạo chủ yếu bằng các thành phần Hán. Để có các thể loai văn Nôm, văn viết đòi hỏi có thể thức. Sở dĩ Văn Nôm hình thành trước hết ở thơ ca là bởi vì lời thơ có âm luật và cấu trúc song hành của ngôn ngữ gián cách, như cái khuôn để người làm thơ lắp chữ vào. Tất nhiên Nguyễn Trãi làm thơ lục ngôn có nhiều khác biệt so với thơ chuẩn của thơ chữ Hán, song sự đó rất hiếm , về sau người ta vẫn theo lệ cũ. Các thể loại truyện Nôm, ngâm khúc, hát nói là sáng tạo đột xuất của người Việt nhờ có chữ Nôm. Văn xuôi Nôm trái lại phát triển chậm chạp, bởi văn xuôi đòi hỏi hành văn liên tục, phi gián đoạn, đòi hỏi những thể thức khác với văn vần, thơ ca. Chỉ cần đọc bản dịch Nôm của Nguyễn Thế Nghi thì thấy cách hành văn xuôi chưa hình thành, Việt Hán lẫn lộn, do từ vựng chưa đầy đủ. Có ý kiến cho rằng trong lĩnh vực hành chính có lẽ do thiếu chuẩn mực thống nhất của chữ Nôm, bất tiện trong quản lí, kém ưu thế so với chữ Hán. Nhưng thiết nghĩ đó chỉ là một lí do. Chưa định hình thể thức mới là lí do chính. Bản văn của Nguyễn Thế Nghi chỉ là văn dịch, chuyển nghĩa từ Hán sang Việt, mức độ lệ thuộc vào bản Hán văn rất cao, đọc lổn nhổn, tối nghĩa là một minh chứng cho sự thiếu hụt về thể thức câu văn và tổ chức liên kết các câu văn và từ ngữ để thành văn bản. Thực tế này cũng có thể nhìn thấy qua một số văn bản văn bia bằng chữ Nôm, trong đó ảnh hưởng của văn vần vẫn rất lớn, và ảnh hưởng này kéo dài cho tới đầu thế kỉ XX. Đối với các tài liệu sử Việt, hoặc là viết bằng văn xuôi chữ Hán, hoặc là viết bằng thể văn vần để thành diễn ca, đó là vì các tác giả Việt Nam lại chuyển sang diễn ca như Thiên Nam ngữ lục, Việt sử diễn âm cho dễ thuộc và dễ đọc. Người Việt lúc ấy cũng chưa biết đọc văn xuôi. Đó là vì thể thức diễn ca đã sớm định hình. Văn xuôi chỉ có được hình thức độc lập khi nào tạo được thể thức độc lập, trong đó câu văn xuôi trần thuật, biểu cảm, nghi vấn, câu điều kiện, câu giả thiết, câu mệnh lệnh hình thành, có vị trí độc lập. Chữ quốc ngữ do các cha cố Bồ Đào Nha , Pháp sang truyền đạo từ thế kỉ XV, chữ quốc ngữ được sáng tạo vào khoảng thế kỉ XVII và lưu hành trong giáo hội và giáo dân. Theo Nguyễn Huệ Chi, các cha cố Việt, các tầng lớp thông ngôn đã bước đầu sử dụng chữ Nôm để viết thư, viết truyện các thánh, ví như sách Quan quang Nam Việt, gồm 2 tập được viết dần dần từ thế kỉ XVII, rồi được cha cố sửa chữa, phiên âm, đem in năm 1902. Trong đó ngôn ngữ thuần Việt, trong sáng theo lời nói hàng ngày, không dùng các hư từ Hán Việt, lại còn dùng khẩu ngữ. Rõ ràng loại văn quốc ngữ này đã làm mẫu và lan ra ngoài giới thiên chúa giáo. Nhà văn Trương Vĩnh Ký là người vừa công giáo vừa viết văn quốc ngữ là một minh chứng cho sự lan toả của văn xuôi công giáo sang văn xuôi tiếng Việt. Do tính ưu việt, và chính sách của Pháp muốn dạy chữ quốc ngữ, song họ vẫn không bỏ chữ Hán, chỉ bỏ khoa cử. Các nhà cách mạng Đông Kinh nghĩa thục vì mục đích cách mạng đã cổ xuý học chữ quốc ngữ. Rồi báo quốc ngữ đã xuất hiện sớm từ 1865, đã làm cho người đọc quen với quốc ngữ, văn quốc ngữ. Trong việc thay đổi này, nhất là sự hình thành nền văn xuôi mới, yếu tố văn Pháp có vai trò không nhỏ. Mọi người biết tiếng Pháp dĩ nhiên có quan niệm về câu cú, về ngữ pháp, tạo thành ý thức về ngôn ngữ. Họ biết phân biệt chữ ghi âm, biết tri thức ngôn ngữ. Chính ý thức này thúc đẩy văn xuôi quốc ngữ phát triển. Sự hình thành nền văn xuôi Nam Bộ là một thành tựu to lớn, nó kích thích dòng văn xuôi quốc ngữ đầu thế kỉ XX phát triển. Tiểu thuyết tiếng Việt và thơ ca tiếng Việt quốc ngữ, văn chính luận, báo chí quốc ngữ đều là thành tựu đột xuất. Song song với chữ quốc ngữ, giai đoạn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là giai đoạn xã hội Việt Nam biến động lớn. Không chỉ có Pháp với người Việt, mà Trung Quốc cũng đang biến động lớn. Phong trào duy tân xuất hiện cả ở Trung Quốc lẫn Việt Nam, sự tiếp nhận ồ ạt hàng loạt từ ngữ mới của Nhật Bản, những từ mà người Nhật dùng yếu tố Hán, hoặc từ Hán có sẵn để dịch các thuật ngữ, danh từ phương Tây. Cho nên vốn từ xã hội, chính trị, triết học, văn hoá, quân sự, y học, giáo dục, khoa học ồ ạt được tiếp nhận. Đây là thời kì tiếp nhận tiếng Hán Nhật nhiều nhất, đồng thời sử dụng lại từ Hán Việt đã biết. Trước khi chưa có chữ quốc ngữ, chữ Hán và chữ Nôm cũng không hoàn toàn tách biệt. Xem Chinh phụ ngâm và Truyện Kiều để xem tỉ lệ tiếng Việt và tiếng Hán Việt được sử dụng là bao nhiêu. Rồi đem so với văn xuôi , văn báo chí, văn chính luận thời đầu thế kỉ, xem tỉ lệ tiếng Việt và tiếng Hán Việt bao nhiêu thì có thể kết luận được các giai đoạn tiếp nhận từ Hán Việt truyền thống và từ Hán Việt gốc Nhật. Đồng thơi đây cũng là thời gian tiếng Việt tự cải tạo mình. Biết bao nhiêu khái niệm mới, từ mới phải được gọi tên, và do đó, người Việt sẽ dùng các yếu tố Hán Việt để tạo từ Việt mới, hoặc sử dụng từ Hán Việt theo nghĩa riêng của tiếng Việt, mà tiếng Hán không có. Ví dụ ta nói chiến tranh ác liệt, từ ác liệt chỉ sự dữ dội, sự tàn khốc, trong khi đó trong tiếng Hán từ ác liệt nghĩa là xấu xa, đê tiện. Từ tử tế, người Hán hiểu là tinh vi, chi li, thì người Việt hiểu là có thái độ tốt. Loại từ này rất nhiều mà chưa được nghiên cứu. Đáng buồn là giới ngôn ngữ học có một thời gian dài chỉ nói áng chừng từ Hán Việt chiếm 60 – 80% từ vựng Việt, mà không có chứng minh gì cả. Gần đây Viện ngôn ngữ học có đề tài nghiên cứu Từ ngữ Hán Việt, tiếp nhận và sáng tạo 2018, đã khẳng định dứt khoát tỉ lệ từ Hán Việt trong tiếng Việt chỉ khoảng 30 – 35%. Sự phát triển của tiếng Việt gắn bó với chữ viết. Sự chính xác của chữ quốc ngữ vượt xa lối ghi âm của chữ Nôm. Chữ viết làm cho số người sử dụng trở nên đông đúc, cơ hồ toàn thể xã hội, trong khi chữ Hán và chữ Nôm, ngay ơ thời Trung đại, chỉ lưu hành trong một bộ phận rất nhỏ dân cư, vị thế đó không thể làm cho chữ Nôm phát triển. Nếu có số thống kê người học chữ Hán trên số người dân đương thời thì vấn đề này được chứng minh rõ ràng. Người ta thường chỉ thấy chữ quốc ngữ ghi tiếng nói hàng ngày mà không thấy thứ chữ đó đã làm cho gần như toàn dân đều đọc được, viết được. Và các phong trào chính trị xã hội, văn hoá co tác động lớn đến phong phú vốn từ và cách diễn đạt. Không chỉ đầu thế kỉ XX, mà hầu như suốt thế kỉ chúng ta vẫn tiếp tục tiếp thu từ Hán Việt. Sau năm 1954 chúng ta tiếp thụ một loại từ Hán mới. Những liệt xa viên, liệt xa trưởng, những thủ trưởng, chuyên chính vô sản, đại táo, tiểu táo, uỷ viên trung ương, bộ chính trị, tập huấn, chỉnh huấn, tố khổ…đều tiếp thu trong phong trào cách mạng vô sản. Trong số đó có nhiều từ đã và sẽ lại chữ Nôm tuy rất tuyệt với, ghi được những áng văn bất hủ của dân tộc, song nó không làm cho tiếng Việt phát triển, vì người sử dụng nó chỉ giới hạn trong một tầng lớp có học. Mà người học thuở ấy còn rất ít.. Chỉ chữ quốc ngữ, một thứ chữ ghi âm đích thực, mới có tác dụng thúc đẩy toàn xã hội tham gia đóng góp, sử dụng tiếng Việt trong vận hội mới, thời đại mới. Chữ viết gắn bó với vận mệnh của văn học, điều này đã được lịch sử chứng minh. Ngoại trừ nhà chuyên môn, toàn dân mà trước hết là toàn bộ học sinh các cấp phổ thông không nhất thiết trở lại học thứ chữ chỉ có chức năng sử dụng hẹp. Đây là lúc cần nghiên cứu kí lưỡng vốn từ Hán Việt để dùng yếu tố Việt và Hán Việt mà làm phong phú cho tiếng Việt hiện đại, thay vì sử dụng tiếng Anh tràn lan như hiện nay trên đài truyền hình và trên báo chí. Ngoài ra tôi muốn nhấn mạnh điểm này. Những người biết chữ Hán và dịch sách Hán ra tiếng Việt nói chung đều chưa hay, vì họ bị lệ thuộc quá nhiều vào từ Hán mà họ dễ phiên âm, làm rối thêm tiếng Việt, văn dịch kém trong sáng. Trong khi đó khi dịch các văn bản tỉếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga do không có chỗ dựa dẫm, họ phải tự mình vắt óc sáng tạo, và quả nhiên họ dịch đọc hay hơn, sáng tạo hơn. Tất nhiên các bản dịch tiếng Anh tiếng Pháp cũng có nhiều thảm hoạ, song đó là do lí do cá nhân, chứ không do một thứ tiếng. Hà Nội, ngày 17 tháng 9 năm 2016. [1] Bùi Duy Tân. Khảo và luận một số tác giả tác phẩm văn học trung đại Việt Nam. , tập một, nxb GD, Hà Nội, 1999, tr. 7 – 12. [2] Nguyễn Quang Hồng, Khái luận văn tự học chữ Nôm, nxb. Giáo dục, 2008, tr. 131 và các trang khác. Trong cuốn sách này Nguyễn Quang Hồng đã phân tích trạng thái chữ Nôm trong bản Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, chỉ ra tình trạng dùng hai kí tự chữ Hán để ghi một từ tiếng Việt. khá phổ biến. Với hình thái chữ Nôm ấy thiết nghĩ người ta chưa thể dùng để làm thơ luật năm chữ hay bảy chữ được. Chỉ khi đã có một chữ ghi một tiếng như tiếng Hán thì người ta mới làm thơ luật được. Đến Quốc âm thi tập tình trạng ấy đã thay đổi, tình trạng một chữ ghi bằng hai kí tự đã giảm thiểu căn bản, chỉ còn lại một số rất ít, như tác giả đã chỉ ra, như câu Bà ngựa gầy, thiếu kẻ chăn, “Bà ngựa” thực ra là hai kí tự ghi một từ “Ngựa”.
Tác giả Mã Đạt* Lược dịch Nguyễn Hải Hoành Trích yếu [của Mã Đạt] Trước giữa thế kỷ 10, vùng Bắc và Trung bộ Việt Nam hiện nay từng thuộc về Trung Quốc. Năm 968, sau khi xây dựng quốc gia tự chủ, Việt Nam lại giữ mối “quan hệ phiên quốc — chính quốc” lâu dài với Trung Quốc. Chữ Hán là chữ viết thông dụng của vùng này. Năm 1945, chữ Việt Nam Latin hoá trở thành chữ viết chính thức của Việt Nam. Trong tiến trình lịch sử lâu dài, văn hoá Trung Quốc với vật mang là chữ Hán đã được truyền bá rộng rãi ở Việt Nam và có ảnh hưởng quan trọng tới nước này. Bốn giai đoạn truyền bá chữ Hán tại Việt Nam Nhà văn tự học nổi tiếng Châu Hữu Quang từng có lời bàn rất sâu sắc về sự truyền bá và phát triển chữ viết. Ông nói “Ở phương Tây lưu truyền một quan điểm nói chữ viết đi theo tôn giáo ’, thực tế là chữ viết đi theo văn hoá . Chữ viết nào thay mặt nền văn hoá cao hơn thì mãi mãi truyền bá tới các dân tộc có văn hoá thấp. Nói chung, sự truyền bá và phát triển chữ viết trải qua 4 giai đoạn giai đoạn học tập, giai đoạn mượn dùng, giai đoạn phỏng tạo và giai đoạn sáng tạo. Tính giai đoạn của sự truyền bá thể hiện rõ nhất trong lịch sử chữ Hán.”[1] Sự truyền bá chữ Hán tại Việt Nam đại để cũng trải qua 4 giai đoạn đó Thời kỳ đầu của sự du nhập chữ Hán là “giai đoạn học tập”; tiếp theo là “giai đoạn mượn dùng”; vào khoảng thế kỷ 13 bắt đầu “giai đoạn phỏng tạo” –– xuất hiện chữ Nôm. Cùng với sự xâm nhập của thực dân phương Tây, bắt đầu “giai đoạn sáng tạo” –– Latin hoá. Giai đoạn học tập Chữ Hán và Hán ngữ du nhập Việt Nam theo sự di chuyển nhân dân Trung Nguyên cổ đại. Dân tộc chủ thể của Việt Nam ngày nay –– Việt tộc Kinh tộc từng là một nhánh của Bách Việt cổ đại, tức Lạc Việt [?]. Tương truyền vào thời đại Việt Vương Câu Tiễn, một số người trong bọn họ đã có thể lợi dụng chữ Hán và Hán ngữ làm công cụ giao tiếp, bắt đầu lịch sử Ngô quốc và Sở quốc đi lại với nhau. Năm 333 TCN, sau khi nước Sở diệt nước Việt, trong quá trình người Việt liên tục di cư về phía Nam, người Việt đã mang chữ Hán, Hán ngữ Mân Việt ngữ cùng văn hoá và kỹ thuật sản xuất tiên tiến đến lưu vực sông Hồng. Năm 316 TCN, Tần diệt Thục, hơn 30 nghìn người bộ tộc Thục sau đó cũng dần dần di cư về phía Nam. Tại đồng bằng sông Hồng, năm 257 TCN, Hoàng tử Thục [蜀王子泮 Thục Phán?] tự lập mình là An Dương Vương. Người Thục một lần nữa mang chữ Hán đến lưu vực sông Hồng. Năm 221 TCN, Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc, sau đó từng “đưa những người thường trốn tránh, người ở rể và người đi buôn” “đến đấy canh giữ”. Thời Triệu Đà, “Đồ dân” [dân di cư] từ Trung Nguyên không ngừng di cư tới sống chung với người Việt Nam. Trong quá trình sinh hoạt lâu dài hôn nhân lẫn nhau và trong quá trình sản xuất, đi lại, họ cũng dần dần trở thành người Việt Nam chính cống. Vì thời đó bộ tộc Việt Nam chưa có chữ viết nên chữ Hán và tiếng Hán bèn mọc rễ, nở hoa, trở nên lưu hành trong Việt tộc. Đời Hán, các quan lại địa phương vùng Giao Chỉ, Cửu Chân như Nhâm Diên, Tích Quang “mở trường học, dạy lễ nghĩa”, tiến hành truyền bá chữ Hán và tiếng Hán một cách có ý thức, có tổ chức, có kế hoạch. Qua nhiều năm hăng hái chăm lo công việc, dốc sức giáo hoá, chẳng những trừ bỏ được những hủ tục mà còn “Dạy dân dần dần có lễ nghĩa”, làm tăng số người biết chữ Hán và tiếng Hán trong Việt tộc. Từ các sự thực kể trên ta thấy, trong thời kỳ Tần Hán, chữ Hán và tiếng Hán truyền vào Việt Nam xảy ra kèm theo sự di cư dân chúng gây ra bởi chiến tranh. Từ đời Tần Hán về sau, các đời phong kiến thống trị Trung Quốc xuất phát từ nhu cầu chính trị, kinh tế, đã không ngừng tăng cường truyền bá văn hoá. Điều đó khách quan đã làm cho Việt Nam sớm tiến sang thời kỳ văn minh, rút ngắn thời kỳ mông muội. Khi chữ Hán bắt đầu du nhập Giao Chỉ, vùng này còn ở trạng thái ngu muội nguyên thuỷ. Chữ Hán và văn hoá Trung Quốc truyền vào đã thúc đẩy Giao Chỉ chuyển sang xã hội văn minh. Thời kỳ này là “giai đoạn học tập” chữ Hán. Giai đoạn mượn dùng Trong hơn 1000 năm kể từ khi chữ Hán truyền vào cho tới năm 968 Việt Nam độc lập [tức thời kỳ Bắc thuộc], các quan lại quận huyện vùng Giao Chỉ Giao Châu, An Nam đều do các vương triều phong kiến Trung Quốc phái đến. Thái thú Giao Chỉ Tích Quang cuối đời Tây Hán, Thái Thú Cửu Chân Nhâm Diên đầu đời Đông Hán và Thái thú Giao Châu Sĩ Nhiếp thời kỳ Tam Quốc là những nhân vật nổi bật. Họ ra sức đẩy mạnh dạy chữ Hán, mở trường, thực hành giáo dục văn hoá Hán, dạy lễ nghĩa, thực hành chế độ một vợ một chồng, mở rộng áp dụng kỹ thuật sản xuất tiên tiến và văn hoá vùng Trung Nguyên. Các biện pháp cai trị như vậy đã thúc đẩy vùng Giao Chỉ từ chỗ ngu muội đi lên xã hội phong kiến “Thông thi thư, tập lễ nhạc” [Đọc hiểu Tứ thư ngũ kinh, tuân theo lễ nghi]. Đời Đường lập An Nam Đô hộ phủ. Các quan lại địa phương chú ý ra sức làm văn hoá giáo dục, dùng học thuyết Nho giáo để giáo hoá dân tục của xứ An Nam. Trong các thời kỳ lịch sử, do chiến tranh, loạn lạc mà có nhiều dân cư vùng Trung nguyên đã di chuyển đến Giao Châu. Trong số này có nhiều văn nhân, danh sĩ. Họ viết sách, lập chủ thuyết, truyền thụ các kinh điển Nho học. Những hoạt động học thuật đó đã nâng cao trình độ văn hoá và dân trí trong vùng, có tác dụng quan trọng đối với sự truyền bá văn hoá Hán. Vào đời Đường, tại xứ An Nam đã hình thành trào lưu nghiên cứu, học tập văn hoá Hán. Các nhân sĩ An Nam cũng tham gia khảo thí khoa cử như các nhân sĩ Trung nguyên. Khi ấy âm đọc chữ Hán, việc sử dụng Hán ngữ và dạy Hán ngữ ở An Nam đã hình thành hệ thống hoàn chỉnh, chính quy. Học giả Việt Nam Nguyễn Tài Cẩn cho biết “Cách đọc Hán Việt đối với chữ Hán của Việt Nam hiện nay bắt nguồn từ hệ thống ngữ âm chữ Hán đời Đường, cụ thể là Đường âm được giảng dạy tại Giao Châu vào thế kỷ 8 – 9”.[2] Năm 968, Việt Nam độc lập. Sau đó các triều đại phong kiến đều chủ động đẩy mạnh phổ cập và sử dụng chữ Hán, học văn hoá Hán tiên tiến để phục vụ sự cai trị của mình. Thời kỳ này là “giai đoạn mượn dùng” chữ Hán của Việt Nam. Giai đoạn phỏng tạo Khi tìm hiểu lịch sử sử dụng chữ Hán của Việt Nam, không thể bỏ qua lịch sử sử dụng chữ Nôm. Vào giữa thế kỷ 10, Việt Nam thoát khỏi ách cai trị phong kiến của Trung Quốc, xây dựng quốc gia tự chủ. Tuy Việt Nam luôn giữ mối “quan hệ chính quốc –– phiên quốc” với các vương triều Trung Quốc và sử dụng chữ Hán, nhưng cùng với sự không ngừng thức tỉnh và trỗi dậy về ý thức dân tộc và ý thức quốc gia, nước này luôn luôn có ý đồ sáng chế chữ viết của mình. Việc họ làm ra và sử dụng chữ Nôm là một chú giải tốt nhất của tâm trạng đó. Chữ Nôm là nói “Chữ Việt Nam được làm ra trong những năm mượn dùng chữ Hán, vì để viết tiếng Việt mà mượn dùng chữ Hán và bắt chước hình thức chữ Hán”. Chữ Nôm tức là “chữ viết của nước Nam”. Người sáng tạo chữ Nôm dùng các phương pháp hội ý, giả tá, hình thanh trong “Lục thư” làm phép tạo chữ. Chữ dùng phép giả tá, như chữ 固 có, mượn âm không mượn ý; chữ dùng phép hội ý, như chữ nghĩa là “ăn”; chữ tự tạo như chữ nghĩa là “buồn”. [trong bài này, những chữ bỏ trống là do trong máy tính của người dịch không có các chữ Nôm này] Chữ Nôm gồm chữ Hán mượn để viết tiếng Việt và chữ Việt Nam tự sáng tạo. Chữ Hán mượn dùng chỉ mượn âm không mượn nghĩa. Chữ tự tạo thì hoàn toàn mô phỏng kết cấu của chữ Hán, thường ghép hai chữ Hán thành một chữ Nôm, một bên biểu thị ngữ âm, một bên biểu thị ý nghĩa; có thể nói là vật thứ sinh [nguyên văn diễn sinh] tại Việt Nam của chữ Hán. Hán ngữ đã có cống hiến cực lớn vào việc hình thành và làm giàu ngôn ngữ quốc gia chính thức mà Việt Nam đang sử dụng –– Việt ngữ Latin hoá. Ít nhất có 60% từ vựng tiếng Việt là mượn từ Hán ngữ; sử gia Việt Nam Văn Tân cho rằng tỷ lệ này lên tới 70%. Ở thời nhà Trần, chữ Nôm từng được lưu hành rộng rãi, có một thời được dùng làm chữ viết chính thức, dùng song song với văn ngôn Hán ngữ. Đời nhà Hồ, Hồ Quý Ly còn dùng chữ Nôm dịch các kinh điển Nho học. Nhưng nhìn tổng thể thì trong quá trình lâu dài hơn 2000 năm Việt Nam sử dụng ngôn ngữ chữ Hán, người Việt Nam từ đế vương cho tới quý tộc, quan lại và văn nhân đều sùng thượng chữ Hán. Họ còn gọi chữ Hán là “Chữ Nho”, “Chữ ta”. Họ thờ phụng các kinh điển văn hoá Hán như thờ thần thánh, xếp các tác phẩm văn học do họ sáng tác bằng Hán ngữ ở địa vị độc tôn, mà xếp các tác phẩm sáng tác bằng chữ Nôm xuống địa vị thứ yếu, thậm chí có khi có thái độ khinh rẻ văn học chữ Nôm. Chữ viết là sản phẩm của sự phát triển xã hội đến một giai đoạn nhất định, “Nó tích tụ lắng đọng kết cấu văn hoá tâm lý của một dân tộc, phản ánh quan niệm tư duy của những người làm ra chữ viết, là sự chiếu rọi của lịch sử trên bình diện một thời đại”.[3] Sự xuất hiện chữ Nôm phản ánh tâm trạng của tầng lớp sĩ đại phu phong kiến Việt Nam mong muốn độc lập với Trung Quốc về văn hoá. Thế nhưng qua việc xem xét lịch sử phát triển văn học chữ Nôm, chúng tôi thấy thứ sản phẩm “dùng chữ tạo chữ” này đã thất bại [?]. Văn học chữ Nôm ra đời vào thế kỷ 13, hưng thịnh vào thế kỷ 18, trải qua quá trình phát triển gian nan quanh co hơn 5 thế kỷ. Kể từ ngày xuất hiện, chữ Nôm hầu như chưa nhận được sự thừa nhận và coi trọng của các vương triều Việt Nam. Cho dù triều nhà Hồ 1400 – 1407 và triều Nguyễn Tây Sơn 1771 – 1792 có thừa nhận và coi trọng chữ Nôm, Hồ Quý Ly còn hạ lệnh dịch các thư tịch Hán ngữ thành chữ Nôm, ba anh em họ Nguyễn [Tây Sơn] trong quá trình khởi nghĩa và sau khi lập triều đình đều đã đưa chữ Nôm lên địa vị chữ viết chính thức. Nhưng tiếc rằng triều nhà Hồ và triều Tây Sơn đều là những vương triều đoản mệnh, không kịp và không thể trong thời gian cai trị 7 và 20 năm có thể phát huy rực rỡ vai trò của chữ Nôm. Hoàng đế Minh Mạng nhà Nguyễn 1820 – 1841 sau khi lên ngôi từng ra chiếu thư cấm dùng chữ Nôm, nhất loạt lấy “Tự điển Khang Hy” làm tiêu chuẩn, sử dụng chữ Hán chính xác để viết lách. Chiếu thư này nhằm chấm dứt tình trạng giới sĩ phu trong xã hội khi viết văn bản thường viết chen chữ Nôm lẫn với chữ Hán. Các nhà Nho học Việt Nam chính thống đã tẩy chay và miệt thị sử dụng chữ Nôm; trong ý thức tầng sâu của họ chỉ có chữ Hán là chính tông, văn học chữ Nôm luôn bị coi là “văn học thông tục” [nguyên văn tục văn học] không được liệt vào hàng văn học thanh nhã. Vì thế không ít tác phẩm chữ Nôm của văn nhân Việt Nam sau khi hoàn tất đã không ghi tên tác giả, dẫn tới tình trạng trong lịch sử văn học Việt Nam xuất hiện nhiều tác phẩm chữ Nôm khuyết danh. Tâm trạng dân tộc “Trọng Hán khinh Nôm” này của người Việt Nam chắc chắn là một nhân tố quan trọng làm cho văn học Hán, văn hoá Hán tươi tốt lâu dài, còn ngôn ngữ dân tộc và văn học chữ Nôm không phát triển suôn sẻ. Do chữ Nôm và chữ Hán “về hình thức có tính đồng chất không chút sơ hở để bị công kích”, hơn nữa “hệ thống văn học tục thể Việt Nam còn xa mới có được sức sống của kết cấu từ nghĩa của chữ Hán”,[4] cho nên đến thế kỷ 17 [nguyên văn của tác giả] thì chữ Nôm bị chữ Quốc ngữ Latin hoá thay thế, chữ Nôm trở thành một loại văn tự chết, thế nhưng hiện nay vẫn có thể mượn chữ Hán để giải thích. Chữ Hán trở thành công cụ và cầu nối để phát hiện khai thác kho tàng văn hoá truyền thống Việt Nam. Hiện nay, Chính phủ Việt Nam lập riêng một “Viện nghiên cứu Hán Nôm” tại “Trung tâm quốc gia khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam” để chỉnh lý các thư tịch chữ Hán và chữ Nôm của Việt Nam. Trong tiến trình lịch sử sử dụng chữ Hán, Việt Nam hoặc là “câu nệ vào âm đọc chữ Hán, không phát triển huấn độc [đọc cưỡng chế theo âm khác] chữ Hán, qua đó thực hiện sự chuyển đổi chữ Hán từ biểu đạt Hán ngữ đến biểu đạt Việt ngữ”, hoặc là “câu nệ vào âm đọc chữ Hán, lại câu nệ vào hình thể của chữ Hán, chưa thành công thực hiện sự chuyển đổi từ chữ Hán đến chữ viết dân tộc, như Nhật và Triều Tiên đã làm”.[5] Bởi vậy cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, xã hội Việt Nam rơi vào khủng hoảng chữ viết rất nặng nề. Cuối cùng, sự xâm lược của cường quốc phương Tây đã dẫn đến một cuộc cách mạng chữ viết sâu sắc –– Latin hoá chữ viết. Thời kỳ Việt Nam sử dụng chữ Nôm là “giai đoạn phỏng tạo” chữ Hán. Giai đoạn sáng tạo Công cuôc Latin hoá tiếng Việt bắt đầu vào thế kỷ 16 – 17. Thời đó, các nhà truyền giáo châu Âu xuất phát từ nhu cầu truyền bá giáo lý Ki-tô giáo và khai thác thuộc địa, bắt đầu sử dụng chữ cái Latin để ghi chú các phát âm của tiếng Việt. Về sau họ dần dần mở rộng, hoàn thiện, mở màn giai đoạn Latin hoá tiếng Việt. Thập niên 30 thế kỷ 17, giáo sĩ người Pháp Alexander de Rhodes 1593 – 1660 làm ra phương án phiên âm Latin đầu tiên cho tiếng Việt –– chữ Quốc ngữ. Năm 1651, tại Rome, ông xuất bản “Từ điển Việt – Bồ – La”, được coi là sự mở đầu công cuộc phiên âm Latin hoá tiếng Việt. Từ đó chữ viết Latin hoá của Việt Nam trở thành một công cụ nữa để người Việt Nam thu nhận tri thức văn hoá. Nhưng mãi đến năm 1935, Chính phủ Việt Nam [triều đình Huế] dưới quyền cai trị của thực dân Pháp mới chuẩn y cho các nhà trường dùng chữ viết phiên âm để giảng dạy, và năm 1936 ra lệnh chính thức bỏ chữ Hán. Tháng 9/1945, sau khi Cách mạng tháng Tám thắng lợi, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu chính thức xác định chữ viết phiên âm là chữ viết chính thức của Nhà nước Việt Nam. Việc sử dụng phổ biến loại chữ viết mới này, về hình thức dường như đã quét sạch dấu vết của văn hoá Hán, nhưng trên thực tế, ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc đối với Việt Nam vừa sâu sắc vừa lâu dài, một mệnh lệnh ban ra tuyệt đối không thể xoá bỏ được ảnh hưởng đó. Cho tới nay, trong ngôn ngữ của nhân dân Việt Nam vẫn còn có nhiều từ Hán ngữ; trong tập quán sinh hoạt và phong tục xã hội của dân Việt Nam còn giữ lại nhiều truyền thống của dân tộc Hán; trong giới trí thức và nhà cách mạng Việt Nam cận-hiện đại còn có nhiều người tinh thông Hán ngữ, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh, Hoàng Văn Hoan đều có trình độ Hán văn rất cao. Ảnh hưởng của chữ Hán tại Việt Nam Vào giữa thế kỷ 10, Đinh Bộ Lĩnh xây dựng nhà nước tự chủ đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Nhưng trong mười mấy triều đại sau đó, chữ Hán luôn luôn là chữ viết thông dụng của Việt Nam. Trong hơn 400 năm từ đời Lý cho tới đời Trần, các văn nhân Việt Nam đã dùng chữ Hán viết rất nhiều tác phẩm, như “Việt sử cương mục”, “Đại Việt sử ký toàn thư”, “An Nam nhất thống chí”, “Lĩnh Nam trích quái”, “Đại Nam thực lục”, “Khâm định Việt sử cương giám cương mục”, “An Nam chí”. Nửa cuối thế kỷ 19, người phương Tây tiến về phương Đông, đặc biệt thực dân Pháp sau khi xâm nhập Việt Nam, xuất phát từ nhu cầu thực dân, đã cưỡng chế phổ cập tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ, bài xích Hán văn. Thế nhưng, do nguồn gốc lịch sử sâu xa, Hán văn vẫn được nhân dân Việt Nam ưa thích. Cho tới thập niên 1920, Việt Nam vẫn dùng Hán văn xuất bản khá nhiều sách báo như “Trung học Việt sử toát yếu”, “Việt sử kính”, “Nam Phong tạp chí”. Sử gia Văn Tân nói “Ngôn ngữ văn tự Trung Quốc đã trở thành bộ phận hữu cơ trong ngôn ngữ văn tự Việt Nam. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ văn tự Việt Nam với ngôn ngữ văn tự Trung Quốc khăng khít hơn mối quan hệ giữa chữ Latin với ngôn ngữ Pháp. Vì vậy, nếu muốn thực sự hiểu ngôn ngữ văn tự Việt Nam thì không thể không hiểu ngôn ngữ văn tự Trung Quốc.”[6] Năm 1917, thực dân Pháp ra lệnh bỏ Hán văn, nhưng lệnh này không có hiệu quả rõ ràng. Năm 1937, Phủ Tổng đốc Việt Nam [?] công bố các số liệu Trong số các ấn phẩm xuất bản ở Việt Nam, có 6 loại báo Trung văn, 12 tập san Trung văn, trong khi chỉ có 4 loại tạp chí in chung Pháp văn, Việt văn và Hán văn. Thập niên 1940, dưới sự lãnh đạo của thế hệ nhà cách mạng lão thành Hồ Chí Minh, Bắc bộ Việt Nam được giải phóng. Tuy đã ra sức phổ cập chữ Quốc ngữ, nhưng vẫn còn không ít người thích dùng Hán văn làm thơ phú. Rất nhiều người Việt Nam tinh thông Hán ngữ. Như Hồ Chí Minh trong thời gian 1940 – 1942, khi bị giam trong các nhà tù ở Quảng Tây đã viết hàng trăm bài thơ có trình độ Hán ngữ rất cao, đặt tên là “Nhật ký trong tù”. Ngoài ra, Hoàng Văn Hoan, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng cũng có trình độ Hán ngữ khá cao. Trong lịch sử hơn 2000 năm sử dụng chữ Hán, chẳng những chữ Hán cùng Việt Nam chuyển tiếp từ xã hội bộ lạc nguyên thuỷ mông muội sang xã hội phong kiến, mà còn cùng Việt Nam đi hết giai đoạn xã hội phong kiến gần 2000 năm. Trong quá trình đó, chữ Hán đã đem nền văn hoá Hán có nguồn gốc xa xưa, sâu rộng không ngừng du nhập Việt Nam. Điều đó một mặt đã có những đóng góp không thể xoá bỏ cho sự tiến bộ của xã hội Việt Nam, cho sự phát triển mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học kỹ thuật của Việt Nam; mặt khác, do văn hoá Hán đã thấm sâu vào đời sống văn hoá xã hội của Việt Nam, chữ Hán đã có tác dụng chuyên chở văn hoá Việt Nam. Đúng như học giả Việt Nam Văn Tân từng nói “Trước năm 1884, người Việt Nam khi viết sách thường dùng chữ Hán để thể hiện tình cảm, tư tưởng của mình. Vì thế trong kho tàng văn hoá Việt Nam có nhiều trước tác viết bằng chữ Trung Quốc.”[7] Qua đó có thể thấy chữ Hán, với tư cách là chữ viết chính thức Việt Nam sử dụng hơn 2000 năm, đã lập công lớn, không thể xoá bỏ. Trong lịch sử văn hoá cổ đại Việt Nam, chữ Hán và chữ Nôm là những vật liệu chịu tải xây đắp nên nền văn hoá của nước này, nhất là chữ Hán đã có ảnh hưởng toàn diện và sâu xa đối với văn hoá cổ Việt Nam. Thế nhưng, sau khi Pháp xâm chiếm Việt Nam, chữ Hán và chữ Nôm đều dần dần bị chữ viết biểu âm thay thế. Quá trình này chẳng những là một biến đổi lớn về chữ viết của Việt Nam cận đại mà còn có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển văn hoá Việt Nam cận đại. Học giả Pháp 余傅华 [Yu Fuhua, chưa rõ tên tiếng Pháp là gì] bình luận “Loại chữ viết mới này nếu không nói là đã cắt đứt thân cây đại thụ Việt Nam và Trung Quốc thì ít nhất cũng làm cho Việt Nam tách rời Trung Quốc.”[8] Do nguyên nhân lịch sử, nông dân Bắc bộ Việt Nam “cho tới ngày nay, chẳng những thể hiện tình cảm truyền thống như với người biết chữ trong xã hội cũ, mà còn thể hiện một tình cảm sâu đậm nào đó đối với người nước ngoài đọc hiểu chữ Hán”.[9] Giới học giả Việt Nam thập niên 1950 có một quan điểm Mọi tác phẩm viết bằng chữ Hán dù có nội dung yêu nước mạnh mẽ đến đâu, dù viết vào thời kỳ lịch sử nào đều không được coi là văn học dân tộc. Vì thế, tạp chí “Văn Sử Địa” của Việt Nam từng triển khai một đợt thảo luận.[10] Sử gia Việt Nam nổi tiếng Minh Tranh cho rằng trước khi Việt Nam có chữ viết của mình, những tác phẩm mượn chữ Hán để viết, “nội dung và tinh thần có tính chất Việt Nam, phục vụ sự phát triển dân tộc Việt Nam, vì sao lại không thể xếp vào văn học Việt Nam?”[11] Sau cùng Văn Tân thay mặt tạp chí “Văn Sử Địa” đưa ra lời kết về cuộc tranh luận này, ông cho rằng “Nếu loại trừ các tác phẩm đó ra ngoài lĩnh vực văn học dân tộc thì lịch sử dân tộc ta sẽ thiếu hụt một mảng lớn.”[12] Qua cuộc tranh luận này có thể thấy mức độ quan trọng của chữ Hán đối với văn hoá dân tộc Việt Nam. Học giả Việt Nam nổi tiếng Phạm Duy Nghĩa từng kêu gọi Chính phủ Việt Nam phục hồi dạy chữ Hán tại Việt Nam than rằng “Từ sau khi chữ viết phiên âm thay cho chữ Hán, dường như người Việt Nam đã tự mình xây một bức tường ngôn ngữ và văn hoá ngăn cách các thế hệ sau với các thế hệ trước. Một số từ ngữ như luật, lệ, khế ước, phán quan bây giờ chỉ ngẫu nhiên thấy có trên sách vở. Phần đông người Việt Nam hiện đại rất ít cảm nhận được những triết lý văn hoá và giá trị tinh thần ẩn chứa phía sau các từ ngữ đó.”[13] Quan điểm này hiện khá lưu hành trong tầng lớp trí thức cấp cao ở Việt Nam. Lời kết Tổng quan những phần trình bày ở trên, tôi cho rằng Hán ngữ cấu tạo bởi chữ Hán, và văn hoá Hán mà nó chuyên chở, là bộ phận cấu thành quan trọng sự phát triển ngôn ngữ, văn học và văn hoá Việt Nam. Nhờ sự truyền bá chữ Hán mà chất đất màu mỡ cùng các dưỡng chất phong phú của văn hoá Trung Quốc đã thai nghén, nuôi dưỡng và tưới tắm nền văn hoá Việt Nam. Sự hưng thịnh của văn hoá Trung Quốc tại Việt Nam cũng kéo theo sự phát triển không ngừng của văn hoá bản địa Việt Nam, thúc đẩy bánh xe lịch sử – văn hoá toàn bộ Việt Nam không ngừng tiến lên phía trước. *Mã Đạt 马达, sinh 1965, người Hà Nam Trung Quốc, nghiên cứu sinh tiến sĩ Học viện Lịch sử tại trường Đại học Trịnh Châu Hà Nam, Phó Tổng Biên tập Thời báo Văn hoá; chủ yếu nghiên cứu lịch sử văn hoá cổ đại Trung Quốc. Bài này viết theo quan điểm của giới sử học Trung Quốc. Chúng tôi dịch bài này không có nghĩa là tán thành quan điểm của tác giả. Nguồn bài gốc tiếng Trung 论汉字在越南的传播及其影响 2012-08-11 Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa sau năm Bắc thuộc? ——————- [1] 赵丽明: 汉字传播与中越文化交流 [M]. 北京:国际文化出版社,2004. [2] Như trên. [3] 姜跃滨, 章也. 浮出翰海——汉语与汉文化的建构 [M]. 西安 陕西人民教育出版社, 1989. [4] 汪德迈. 新汉文化圈 [M]. 南昌:江西人民出版社,1993. [5] 吴受祥. 越南汉字使用史上的两次失误 [J] 解放军外语学院学报,1992, 5):40—46. [6] 中国社会科学院历史所. 古代中越关系史资料选编 [M]. 北京 中国社会科学出版社,1982. [7] 吴受祥. 越南汉字使用史上的两次失误 [J] 解放军外语学院学报,1992, 5):40—46. [8] [法] 余敷华. 中国面向世界 [M]. 袁树仁译。北京:三联书店,1987. [9] Như trên. [10] 梁志明. 论越南儒教的源流,特征和影响 [J]. 北京大学学报(哲学社会科学版),1995,(1):26—33. [11] Như trên. [12] Như trên. [13] 黄河黄. 越南汉字之殇 [EB/OL].
văn học chữ hán việt nam