văn học chữ hán và chữ nôm

MỘT SỐ CHỮ TRONG TRUYỆN KIỀU NÔM. Truyện Kiều là một kiệt tác văn học, cũng là một trong những tác phẩm cổ điển tồn tại nhiều vấn đề văn bản phức tạp nhất. Theo một thống kê được công bố (1) thì trong các bản "Truyện Kiều" đã ấn hành có tới gần 1.200 Như bạn biết nghệ thuật viết thư pháp xuất phát từ Trung Hoa và 1 số nước như Nhật Bản và Hàn Quốc. Việt nam chúng ta trải qua nhiều thời kỳ đô hộ của phong kiến Trung Quốc và thời kỳ Hán Nôm nên nghệ thuật thư pháp có chăng cũng có ảnh hưởng chút ít là thư pháp chữ Hán Nôm, bây giờ thư pháp Hán Nôm còn rất ít người viết và đa số ở miền Bắc. 3. Cách viết các bộ thủ. 4. Cách viết chữ độc thể. 5. Cách viết chữ hợp thể. Đối với người học tiếng Trung cơ bản thì việc luyện viết rất quan trọng, bởi nó giúp bạn nhớ mặt chữ lâu hơn. Không chỉ vậy, thường xuyên luyện chữ sẽ giúp cho nét chữ của bạn This site is about Chữ Nôm, the ancient writing system of Vietnam. Use the search box to find information about a word or a character. It has fewer features but it allows basic writing of Nôm characters on mobile phones. 12/12/2013 - Easier Compound Writing The most frequent word is now "吧 và" and not "羅 l B. Chữ Nôm đã phát triển mạnh. C. Nhà nước khuyến khích sử dụng chữ Nôm. D. Chữ Nôm dần khẳng định giá trị, khả năng, vai trò trong nền văn học nước nhà. Hướng dẫn. Chọn đáp án: D. Giải thích: (SGK - Tr.100) materi pai kelas 4 semester 2 kurikulum 2013. Chữ Nôm 字喃, còn gọi là Quốc âm chữ Hán 國音, là một hệ chữ ngữ tố từng được dùng để viết tiếng Việt, gồm các từ Hán-Việt và các từ vựng khác. Nó bao gồm bộ chữ Hán tiêu chuẩn và các chữ khác được tạo ra dựa theo quy tắc. Chữ Nôm là gì? Định nghĩa Cả hai từ “Chữ” và “Nôm” trong chữ Nôm đều là từ Hán Việt cổ. Từ chữ bắt nguồn từ cách phát âm trong tiếng Hán thượng cổ của chữ “tự” 字 có nghĩa là chữ. Từ “Nôm” bắt nguồn từ cách phát âm trong tiếng Hán trung cổ của chữ “nam” 南 có nghĩa là phía nam. Ý của tên gọi chữ Nôm là đây là thứ chữ dùng để ghi chép tiếng nói của người phương Nam tức người Việt, xưa kia người Việt tự xem mình là người phương Nam, còn người Trung Quốc là người phương Bắc. Tên gọi chữ Nôm khi viết bằng chữ Nôm có thể viết bằng rất nhiều cách khác nhau 字喃,(⿰字宁)喃,(⿰字守)喃,喃,茡喃,芓喃,(⿰字文)喃,喃,佇喃,宁喃 字諵,(⿰字宁)諵(⿰字守)諵,諵,茡諵,芓諵,(⿰字文)諵,諵,佇諵,宁諵 Một trang từ cuốn Nhật dụng thường đàm chữ Nôm 1851. Vậy còn Chữ Nho là gì? Danh từ chữ Nho được dùng để chỉ chữ Hán do người Việt dùng trong các văn bản ở Việt Nam. Các quan điểm về sự hình thành của chữ Hán Nôm Cách cấu tạo chữ Nôm có thể đã manh nha ló dạng từ những năm đầu khi người Hán chinh phục đất Giao Chỉ Miền Bắc Việt Nam và đặt nền đô hộ trên các bộ lạc người Việt vào đầu Công Nguyên. Vì ngôn ngữ khác biệt, những “chữ Nôm” đầu tiên xuất hiện vì nhu cầu ghi địa danh, tên người hoặc những khái niệm không có trong Hán văn. Song chứng cứ còn lưu lại hết sức ít ỏi, khó kiểm chứng được một cách chính xác. Phạm Huy Hổ trong “Việt Nam ta biết chữ Hán từ đời nào?” thì cho rằng chữ Nôm có từ thời Hùng Vương. Văn Đa cư sĩ Nguyễn Văn San lại cho rằng chữ Nôm có từ thời Sĩ Nhiếp cuối đời Đông Hán thế kỷ thứ 2. Nguyễn Văn Tố dựa vào hai chữ “bố cái” trong danh xưng “Bố Cái đại vương” do nhân dân Việt Nam suy tôn Phùng Hưng mà cho rằng chữ Nôm có từ thời Phùng Hưng thế kỷ thứ 8. Ý kiến khác lại dựa vào chữ “cồ” trong quốc hiệu “Đại Cồ Việt” 大瞿越 để cho rằng chữ Nôm có từ thời Đinh Tiên Hoàng. Trong một số nghiên cứu vào thập niên 1990, các học giả căn cứ vào đặc điểm cấu trúc nội tại của chữ Nôm, dựa vào cứ liệu ngữ âm lịch sử tiếng Hán và tiếng Việt, so sánh đối chiếu hệ thống âm tiếng Hán và tiếng Hán Việt đã đi tới kết luận rằng âm Hán Việt âm của người Việt đọc chữ Hán ngày nay bắt nguồn từ thời nhà Đường-nhà Tống thế kỷ 8-9. Và nếu âm Hán Việt có từ thời Đường, Tống thì chữ Nôm không thể ra đời trước khi cố định cách đọc Hán Việt nếu xét chữ Nôm với tư cách hệ thống văn tự và chỉ có thể ra đời sau khoảng thế kỷ thứ 10 khi người Việt thoát khỏi nghìn năm Bắc thuộc với chiến thắng của Ngô Quyền vào năm 938. Về văn bản thì khi tìm chứng tích trước thời nhà Lý, văn tịch hoàn toàn không lưu lại dấu vết chữ Nôm nào cả. Sang thời Lý thì mới có một số chữ Nôm như trong bài bi ký ở chùa xã Hương Nộn, huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ tạc năm 1173 niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ 11 hay bia chùa Tháp Miếu, huyện Yên Lãng nay thuộc Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc tạc năm 1210 triều vua Lý Cao Tông. Trước tác thì phải sang thời nhà Trần mới có dấu tích rõ ràng. Hàn Thuyên là người có công lớn phát triển thơ Nôm thời kỳ này với việc mở đầu thể Hàn luật. Sự hình thành và Phát triển của chữ Hán Nôm Ban đầu khi mới xuất hiện, chữ Nôm thuần túy mượn dạng chữ Hán y nguyên để ghi âm tiếng Việt cổ mượn âm để chép tiếng Quốc âm. Phép đó gọi là chữ “giả tá”. Dần dần phép ghép hai chữ Hán lại với nhau, một phần gợi âm, một phần gợi ý được dùng ngày càng nhiều và có hệ thống hơn. Phép này gọi là “hài thanh” để cấu tạo chữ mới. Kể từ thời Lê về sau số lượng sáng tác bằng chữ Nôm tăng dần trong suốt 500 năm từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19. Dồi dào nhất là các áng thi văn có tính cách cảm hứng, tiêu khiển, và nặng phần tình cảm. Những tác phẩm Nôm này rất đa dạng từ Hàn luật thơ Nôm tiếng Việt theo luật Đường, đến văn tế, truyện thơ lục bát, song thất lục bát, phú, hát nói, tuồng, chèo. Thi ca chữ Nôm đã diễn tả đầy đủ mọi tình cảm của dân tộc Việt, khi thì hào hùng, khi bi ai; khi thì trang nghiêm, khi bỡn cợt. Chữ Hán Nôm Trước thế kỷ 15 Một số di tích còn lưu lại dấu vết chữ Nôm trước thế kỷ 15 nhưng số lượng không nhiều ngoài vài văn bia. Tuy nhiên có thuyết cho rằng một tác phẩm quan trọng là tập Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, dịch Nôm là Phật nói cả trả ơn áng ná cực nặng đã ra đời vào thời nhà Lý khoảng thế kỷ 12. Đây cũng là đặc điểm vì tập này là văn xuôi, một thể văn ít khi dùng chữ Nôm. Nhà Trần cũng để lại một số tác phẩm chữ Nôm như mấy bài phú của vua Trần Nhân Tông “Cư trần lạc đạo phú” 居塵樂道賦 và “Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca” 得趣林泉成道歌.[9][10] Chữ Hán Nôm Thế kỷ 15 –17 Thời kỳ này phần lớn thi văn lưu truyền biết tới nay là thơ Hàn luật bát cú hoặc tứ tuyệt. Một số là trước tác cảm hứng riêng như Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi Hồng Đức quốc âm thi tập Lê Thánh Tông Bạch Vân am thi tập Nguyễn Bỉnh Khiêm Ngự đề hoà danh bách vịnh Chúa Trịnh Căn Tứ thời khúc vịnh Hoàng Sĩ Khải Ngọa long cương Đào Duy Từ nhưng cũng không thiếu những tác phẩm theo dạng sử ký như Thiên Nam Minh giám, Thiên Nam ngữ lục. Thơ lục bát cũng xuất hiện với tác phẩm “Cảm tác” của Nguyễn Hy Quang, được sáng tác năm 1674. Thế kỷ 17 cũng chứng kiến sự xuất hiện nhưng đã sớm nở rộ của văn học Nôm Công giáo, với những tác giả tên tuổi như nhà truyền giáo Girolamo Maiorica chủ trì biên soạn hơn 45 tác phẩm nhiều thể loại, thầy giảng Gioan Thanh Minh viết tiểu sử các danh nhân và thánh nhân, thầy giảng Lữ-y Đoan viết Sấm truyền ca, truyện thơ lục bát phỏng tác từ Ngũ Thư. Chữ Hán Nôm Thế kỷ 18 – 19 Thơ Hàn luật của những thế kỷ kế tiếp càng uyển chuyển, lối dùng chữ càng tài tình, hóm hỉnh như thơ của Hồ Xuân Hương hay Bà Huyện Thanh Quan. Ngược lại thể thơ dài như Ai tư vãn của Ngọc Hân Công chúa cùng thể song thất lục bát trong Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm lưu danh những nữ sĩ biệt tài thời trước. Riêng Chinh phụ ngâm được xem là một tuyệt tác, có phần trội hơn nguyên bản chữ Nho. Thể song thất lục bát cũng lưu lại tác phẩm Cung oán ngâm khúc, lời văn cầu kỳ, hoa mỹ nhưng thể thơ phổ biến nhất là truyện thơ lục bát, trong đó phải kể Truyện Kiều Nguyễn Du và Lục Vân Tiên Nguyễn Đình Chiểu. Văn từ truyện thơ bình dị hơn nhưng lối hành văn và ý tứ không kém sâu sắc và khéo léo. Những tác phẩm truyện Nôm khuyết danh khác như Thạch Sanh Trê Cóc Nhị độ mai Phan Trần Tấm Cám Lưu Bình Dương Lễ Ngư tiều vấn đáp y thuật Nữ tú tài Tô Công phụng sứ tất cả được phổ biến rộng rãi khiến không mấy người Việt lại không biết vài câu, nhất là Truyện Kiều. Dưới triều đại nhà Tây Sơn, do sự hậu thuẫn của Quang Trung hoàng đế, toàn bộ các văn kiện hành chính bắt buộc phải viết bằng chữ Nôm trong 24 năm, từ 1788 đến 1802. Thời kỳ cuối của chữ Nôm xuất hiện nhiều tác phẩm thi ca theo thể hát nói như của Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Tú Xương Những thể cũ song thất lục bát và lục bát các truyện Nôm vẫn góp mặt song thêm vào đó là những vở tuồng hoặc chèo dân gian cũng được soạn bằng chữ Nôm như Kim Thạch kỳ duyên, Chàng Lía Văn Doan diễn ca, Quan Âm Thị Kính. Đối ngược lại tài liệu văn học thì triết học, sử học, luật pháp, y khoa và ngữ học tuy có được ghi lại bằng chữ Nôm nhưng tương đối ít. Văn vần thì có Đại Nam quốc sử diễn ca thời Nguyễn. Đặc biệt là cuốn từ điển song ngữ Hán Nôm Đại Nam Quốc ngữ do Văn Đa Nguyễn Văn San soạn năm Tự Đức thứ 30 1877.Song sử liệu, nhất là chính sử cùng các văn bản hành chính của triều đình thì nhất thể đều bằng chữ Hán. Ngoại lệ là những năm tồn tại ngắn ngủi của nhà Hồ thế kỷ 15 và nhà Tây Sơn thế kỷ 18. Những văn bản hành chính như sổ sách, công văn, giấy tờ, thư từ, khế ước, địa bạ chỉ đôi khi xen chữ Nôm nếu không thể tìm được một chữ Hán đồng nghĩa để chỉ các danh từ riêng như tên đất, tên làng, tên người, nhưng tổng thể vẫn là văn bản Hán Việt. Sự Suy giảm của chữ Hán Nôm Dưới chính quyền thuộc địa và bảo hộ của Pháp, vào cuối thế kỷ 19 tại Nam Kỳ và đầu thế kỷ 20 tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ, vị thế của chữ Hán và chữ Nôm bắt đầu giảm sút. Kỳ thi Hương cuối cùng tại Nam Kỳ được tổ chức vào năm 1864, tại Bắc Kỳ là năm 1915, tại Trung Kỳ là năm 1918 và kỳ thi Hội sau cùng được tổ chức vào năm 1919. Trong chừng mực nào đó, chữ Hán vẫn tiếp tục được dạy trong thời Pháp thuộc. Học chính Tổng quy Règlement général de l’Instruction publique do Toàn quyền Albert Sarraut ban hành năm 1917 quy định ở cấp tiểu học, mỗi tuần dạy Hán tự một giờ rưỡi và dạy tiếng Pháp lớp nhì và lớp nhất ít nhất 12 giờ. Ở cấp trung học, mỗi tuần quốc văn gồm Hán tự và Quốc ngữ dạy 3 giờ trong khi Pháp văn và lịch sử Pháp dạy 12 giờ. Bên cạnh bộ Quốc-văn giáo-khoa thư của nhóm Trần Trọng Kim, Nha Học chính Đông Pháp còn tổ chức và cho sử dụng bộ Hán-văn tân giáo-khoa thư xuất bản lần đầu năm 1928 do Lê Thước và Nguyễn Hiệt Chi biên soạn, đều được dùng rộng rãi cho tới trước năm 1949. Tại miền Bắc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dừng việc dạy chữ Hán trong nhà trường kể từ năm 1950. Còn tại miền Nam, Giáo dục Việt Nam Cộng hòa quy định dạy chữ Hán cho học sinh trung học đệ nhất cấp….? Sau tái thống nhất, chương trình giáo dục phổ thông của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam không giảng dạy chữ Hán. Chữ Nôm và chữ Quốc ngữ Chữ Nôm và chữ Quốc ngữ là hai hệ chữ dùng để viết tiếng Việt, chúng có vai trò khác nhau trong dòng lịch sử và văn hóa. Chữ Quốc ngữ được các nhà truyền giáo Dòng Tên tại Việt Nam sáng chế dựa trên ký tự Latinh vào nửa đầu thế kỷ 17 và suốt một thời gian dài tới cuối thế kỷ 19 chỉ được lưu hành trong giới Công giáo. Tuy nhiên, trái với nhiều người lầm tưởng, trong thời kỳ này, lượng văn thư Kitô giáo chữ Nôm vượt xa chữ Quốc ngữ, và sách chữ Nôm vẫn được người Công giáo sử dụng cho đến giữa thế kỷ 20. Thời Pháp thuộc, chính quyền thuộc địa muốn tăng cường ảnh hưởng của tiếng Pháp và hạn chế ảnh hưởng của Hán học cùng với chữ Hán. Sự giảm sút của chữ Hán cũng dẫn đến sự suy giảm của chữ Nôm. Về văn tự thay thế để viết tiếng Việt, họ bất đắc dĩ phải chấp nhận sự hiện hữu của chữ Quốc ngữ do các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha chế tạo. Bất chấp việc chính quyền Pháp cổ súy chữ Quốc ngữ cho mục đích của họ, các sĩ phu vận động ủng hộ chữ Quốc ngữ trong công cuộc phổ biến tân học và lan truyền tư tưởng yêu nước. Các phong trào cải cách như Hội Trí Tri, phong trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục và ngành báo chí mới hình thành đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá chữ Quốc ngữ. Ngày nay, tiếng Việt hầu như được viết hoàn toàn bằng chữ Quốc ngữ, trong khi đó chỉ rất ít người, chủ yếu là các học giả, có thể đọc viết được chữ Nôm. Một số người cho rằng chữ Quốc ngữ đã làm lu mờ vị thế của chữ Nôm nhưng một số khác thì nhấn mạnh rằng về mặt kỹ thuật, hai hệ chữ này không loại trừ nhau, nghĩa là, người ta vẫn có thể biết chữ Quốc ngữ đồng thời học chữ Nôm vì điều này không ai ngăn cấm cả. Những cách tạo chữ Nôm Mượn cả âm và nghĩa của chữ Hán Mượn cả âm đọc âm Hán Việt và nghĩa của chữ Hán để ghi lại các từ từ Hán Việt. Âm Hán Việt có ba loại là Âm Hán Việt tiêu chuẩn bắt nguồn từ ngữ âm tiếng Hán thời Đường. Ví dụ “ông” 翁, “bà” 婆, “thuận lợi” 順利, “công thành danh toại” 功成名遂. Âm Hán Việt cổ bắt nguồn từ ngữ âm tiếng Hán trước thời Đường. Ví dụ “mùa” 務 âm Hán Việt tiêu chuẩn là”vụ”, “bay” 飛 âm Hán Việt tiêu chuẩn là “phi”, “buồng” 房 âm Hán Việt tiêu chuẩn là “phòng”. Âm Hán Việt Việt hoá là các âm gốc Hán bị biến đổi cách đọc do ảnh hưởng của quy luật ngữ âm tiếng Việt. Ví dụ “thêm” 添 âm Hán Việt tiêu chuẩn là “thiêm”, “nhà” 家 âm Hán Việt tiêu chuẩn là “gia”, “khăn” 巾 âm Hán Việt tiêu chuẩn là “cân”, “ghế” 几 âm Hán Việt tiêu chuẩn là “kỉ”. Ba loại âm Hán Việt kể trên đều được dùng trong chữ Nôm. Mượn âm chữ Hán, không mượn nghĩa Mượn chữ Hán đồng âm hoặc cận âm để ghi âm tiếng Việt. Âm mượn có thể là âm Hán Việt tiêu chuẩn, âm Hán Việt cổ hoặc âm Hán Việt Việt hoá. Khi đọc có thể đọc giống với âm mượn hoặc đọc chệch đi. Ví dụ Đọc giống như âm Hán Việt tiêu chuẩn chữ “một” 沒 có nghĩa là “chìm” được mượn dùng để ghi từ “một” trong “một mình”, chữ “tốt” 卒 có nghĩa là “binh lính” được mượn dùng để ghi từ “tốt” trong “tốt xấu”, chữ “xương” 昌 có nghĩa là “hưng thịnh” được mượn dùng để ghi từ “xương” trong “xương thịt”, chữ “qua” 戈 là tên gọi của một loại binh khí được mượn dùng để ghi từ “qua” trong “hôm qua”. Đọc chệch âm Hán Việt tiêu chuẩn “gió” 這 mượn âm “giá”, “cửa” 舉 mượn âm “cử”, “đêm” 店 mượn âm “điếm”, “chạy” 豸 mượn âm “trãi”. Đọc giống như âm Hán Việt cổ chữ “keo” 膠 “keo” trong “keo dán”, âm Hán Việt tiêu chuẩn là “giao” được dùng để ghi lại từ “keo” trong “keo kiệt”, chữ “búa” 斧 “búa” trong “cái búa”, âm Hán Việt tiêu chuẩn là “phủ” được dùng để ghi lại từ “búa” trong “chợ búa” “búa” trong “chợ búa” là âm Hán Việt cổ của chữ “phố” 鋪. Mượn nghĩa chữ Hán, không mượn âm Mượn chữ Hán đồng nghĩa hoặc cận nghĩa để ghi lại âm tiếng Việt. Ví dụ chữ “dịch” 腋 có nghĩa nghĩa là “nách” được dùng để ghi lại từ “nách” trong “hôi nách”, chữ “năng” 能 có nghĩa là “có tài, có năng lực” được dùng để ghi lại từ “hay” trong “văn hay chữ tốt”. Tạo chữ ghép Chữ ghép, còn gọi chữ là chữ hợp thể, là chữ được tạo ra bằng cách ghép hai hoặc nhiều hơn chữ khác thành một chữ. Các chữ cấu thành nên chữ ghép có thể đóng vai trò là thanh phù bộ phận biểu thị âm đọc của chữ ghép hoặc nghĩa phù bộ phận biểu thị ý nghĩa của chữ ghép hoặc vừa là thành phù vừa là nghĩa phù hoặc dùng làm phù hiệu chỉnh âm chỉ báo cho người đọc biết chữ này cần phải đọc chệch đi. Chúng có thể được viết nguyên dạng hoặc bị viết tỉnh lược mất một phần hoặc thay bằng chữ giản hóa. Thanh phù luôn có âm đọc giống hoặc gần giống với âm đọc của chữ ghép. Phù hiệu chỉnh âm được dùng trong chữ Nôm là bộ “khẩu” 口 đặt ở bên trái chữ ghép, dấu “cá” 亇 bắt nguồn từ chữ “cá” 个 viết theo thể thảo thư, đặt ở bên phải chữ ghép, dấu nháy “?” đặt ở bên phải chữ ghép, bộ “tư” 厶 đặt ở bên trên hoặc bên phải chữ ghép, dấu “冫” đặt bên trái chữ ghép, chỉ thấy dùng trong các bản văn bản Nôm ở vùng Nam Bộ Việt Nam. → Xem thêm bài 7 Cách học chữ Hán dễ Nhớ nhất → Một số ví dụ về chữ ghép “chân” 蹎 “chân” trong “chân tay” chữ này được cấu thành từ chữ “túc” 足 và chữ “chân” 真. “Túc” 足 có nghĩa là “chân” được dùng làm “nghĩa phù” biểu thị ý nghĩa của chữ ghép. Trong chữ ghép chữ “túc” 足 khi đứng ở bên trái phải viết dưới dạng biến thể gọi là “bàng chữ túc” ⻊. Chữ “chân” 真 “chân” trong “chân thành” đồng âm với “chân” trong “chân tay” được dùng làm thanh phù biểu thị âm đọc của chữ ghép. “gạch” ? “gạch” trong “gạch ngói” chữ này được cấu thành từ chữ “thạch” 石 và chữ “ngạch” 額. “Thạch” 石 có nghĩa là “đá” được dùng làm nghĩa phù, ý là gạch thì được làm bằng đất đá. “Ngạch” 額 dùng làm thanh phù. “khói” chữ này được cấu thành từ chữ “hỏa” 火 và chữ “khối” 塊 bị tỉnh lược một phần tỉnh lược bộ “thổ” 土 ở bên trái chữ “khối” 塊. “Hỏa” 火 có nghĩa là lửa, gợi ý nghĩa của chữ ghép lửa cháy tạo ra khói, “khối” 塊 gợi âm đọc của chữ ghép. “ra” chữ này được cấu thành từ chữ “la” 羅 giản hóa và chữ “xuất” 出. “Xuất” 出 có nghĩa là “ra” biểu thị ý nghĩa của chữ ghép. “trời” chữ này được cấu thành từ chữ “thiên” 天 có nghĩa là “trời” và chữ “thượng” 上 có nghĩa là “trên”, ý là “trời” thì nằm ở trên cao. “lử” “lử” trong “mệt lử” gồm chữ “vô” 無 có nghĩa là “không có” và chữ “lực” 力 có nghĩa là “sức, sức lực”, ý là “lử” là không còn sức lực gì nữa. Tiếng Việt hiện đại không có phụ âm kép nhưng trong tiếng Việt từ giai đoạn trung đại trở về trước thì lại có phụ âm kép. Trong chữ Nôm hợp thể để biểu thị các phụ âm kép người ta dùng một hoặc hai chữ làm thanh phù. Nếu dùng hai chữ làm thanh phù thì một chữ sẽ dùng để biểu thị phụ âm thứ nhất của phụ âm kép, chữ còn lại biểu thị phụ âm thứ hai của phụ âm kép. Ví dụ – “blăng” “Blăng” hiện nay đã biến đổi thành “trăng, giăng”. Chữ “blăng” ? được cấu thành từ chữ “ba” 巴, chữ “lăng” 夌 và chữ “nguyệt” 月. “Ba” 巴 biểu thị phụ âm thứ nhất “b” của phụ âm kép “bl”, “lăng” 夌 biểu thị phụ âm thứ hai “l” và phần vần của từ “blăng”, “nguyệt” 月 có nghĩa là “mặt trăng” biểu thị ý nghĩa của chữ ghép này. – “mlời” “Mlời” hiện nay đã biến đổi thành “lời, nhời” “lời” trong “lời nói”. Chữ “mlời” ? được cấu thành từ chữ “ma” 麻 bị tỉnh lược thành “亠” và chữ “lệ” 例. “Ma” 麻 biểu thị phụ âm thứ nhất – “m” của phụ âm kép “ml”, “lệ” 例 biểu thị phụ âm thứ hai “l” và phần vần cửa từ “mlời”. – “tlòn” “Tlòn” hiện nay đã biến đổi thành “tròn”. Chữ này được cấu thành từ chữ “viên” 圓 bị tỉnh lược bộ “vi” 囗 ở phía ngoài thành “員” và chữ “lôn” 侖. “Viên” 圓 có nghĩa là “tròn” được dùng làm nghĩa phù. “Lôn” 侖 là thanh phù, biểu thị phụ âm thứ hai “l” của phụ âm kép “tl” và phần vần của từ “tlòn”. – “krông” 滝 “Krông” hiện nay đã biến đổi thành “sông”. Chữ này được cấu thành từ bộ “thủy” 水 và chữ “long” 竜. “Thủy” có nghĩa là “sông” biểu thị ý nghĩa của chữ ghép. “Long” 竜 biểu thị phụ âm thứ hai “r” của phụ âm kép “kr” và phần vần của từ “krông”. – “sláu” “sláu” hiện nay đã biến đổi thành “sáu”. Chữ này được cấu thành từ chữ “lão” và chữ “lục”. “Lục” 六 là nghĩa phù, có nghĩa là “sáu”. “Lão” 老 là thanh phù, biểu thị phụ âm thứ hai “l” của phụ âm kép “sl” và phần vần của từ “sláu”. Lược bớt nét của chữ Hán để biểu thị phải đọc chệch đi Lược bớt ít nhất là một nét của một chữ Hán nào đó để gợi ý cho người đọc biết rằng chữ này phải đọc chệch đi. Ví dụ – chữ “ấy” lược nét chấm “丶” trên đầu chữ “ý” 衣. Việc lược bớt nét bút này gợi ý cho người đọc biết rằng chữ này không đọc là “y” hay “ý” chữ 衣 có hai âm đọc là “y” và “ý” mà cần đọc chệch đi. – “khệnh khạng” chữ “khệnh ? là chữ “cộng” 共 bị lược bớt nét phẩy “㇒”, chữ “khạng” ? là chữ “cộng” 共 bị lược bớt nét mác “㇔”. – “khề khà” chữ “khề” ? là chữ “kỳ” bị lược bớt nét phẩy “㇒”, chữ “khà” ? là chữ “kỳ” bị lược bớt nét mác “㇔”. Mượn âm của chữ Nôm có sẵn Dùng chữ Nôm có sẵn để ghi lại từ tiếng Việt đồng âm hoặc cận âm nhưng khác nghĩa hoặc đồng nghĩa nhưng khác âm với chữ được mượn. Khi đọc có thể đọc giống với âm đọc của chữ được mượn hoặc đọc chệch đi. Ví dụ Đọc giống với âm đọc của chữ được mượn chữ “chín” ? “chín” trong “chín người mười ý” được dùng để ghi từ “chín” trong “nấu chín”. Đọc chệch âm chữ “đá” ? “đá” trong “hòn đá” được dùng để ghi từ “đứa” trong “đứa bé”. Nhìn chung chữ Nôm thường có nhiều nét hơn, phức tạp hơn chữ Hán do phần lớn là những chữ buộc phải ghép 2 chữ Hán lại nên khó học, khó nhớ hơn cả chữ Hán vốn cũng đã khó nhớ. Để đọc viết được chữ Nôm đòi hỏi phải có vốn hiểu biết chữ Hán nhất định. Hệ chữ Nôm cũng không có sự thống nhất có thể có nhiều chữ dùng để ghi cùng một âm tiết, hoặc ngược lại, một chữ có thể có nhiều cách đọc khác nhau. Tình trạng này còn do “tam sao thất bản”, phần vì trình độ người thợ khắc chữ ngày xưa, phần vì khâu in mộc bản có chất lượng không cao chữ bị nhòe, mất nét. Do đó có người nói “chữ Nôm phải vừa đọc vừa đoán”, “nôm na là cha mách qué”. Về mặt ngữ học thì do âm trong tiếng Việt nhiều hơn số âm trong tiếng Hán tiếng Việt có 4500 đến 4800 âm; tiếng Hán Quan thoại có khoảng 1280 âm nên người viết phải dùng dấu nháy [»] hoặc chữ khẩu [口] đặt cạnh một chữ để biểu thị những chữ cận âm. Người đọc vì vậy phải giỏi mà đoán cho trúng âm, khiến chữ Nôm rất khó đọc. Chữ Nôm của các dân tộc khác Ở Việt Nam, không chỉ có dân tộc Kinh chế tạo ra chữ Nôm, một vài dân tộc thiểu số khác như Tày, Dao, Ngạn,… cũng tạo ra chữ Nôm dựa trên chữ Hán để lưu lại ngôn ngữ của họ.[19] Chữ Nôm Tày Chữ Nôm Dao Chữ Nôm Ngạn Người Ngạn, một nhóm cư dân ở tỉnh Cao Bằng tự nhận thuộc dân tộc Tày nhưng về mặt ngôn ngữ thì gần với người Giáy, từng sử dụng chữ Nôm Ngạn trộn với chữ Hán trong các bài mo khấn cúng. “Chữ nôm” của các nước khác Do 喃 nôm = 口 khẩu + 南 nam nên chữ “喃 nôm” trong tên gọi “chữ Nôm” thường được hiểu với ý nghĩa là “ngôn ngữ của người Nam”. Tuy nhiên, nếu mở rộng khái niệm “chữ nôm” ra cho tất cả các hệ chữ được sáng tạo dựa trên chữ Hán thì có người còn gọi những chữ được các dân tộc phương bắc như Nhật Bản, Triều Tiên là “chữ nôm Nhật”, “chữ nôm Triều”, hay gọi những hệ thống chữ của các dân tộc thuộc Trung Quốc như Tráng, Đồng, là “chữ nôm Choang”, “chữ nôm Đồng”, Kokuji 国字 Quốc tự trong hệ thống Kanji của người Nhật cũng được tạo thành từ chữ Hán để ghi lại những từ và khái niệm riêng trong tiếng Nhật. Ví dụ 畑 hatake = 火 hoả + 田 điền, nghĩa là cánh đồng khô, để phân biệt với 田 là ruộng trồng lúa nước; 鮭 sake = 魚 ngư + 圭 khuê, nghĩa là cá hồi Nhật Bản; 瓩 kiloguramu = 瓦 ngoã + 千 thiên, nghĩa là kílô-gam. Trong hệ thống Kanji hiện đại, cũng có nhiều chữ không có trong các tự điển Trung Quốc nhưng không phải là Kokuji vì đó chỉ là cách đơn giản hoá những chữ Hán đã có sẵn theo kiểu của người Nhật. Ví dụ 円 là giản thể của 圓 viên; 売 là giản thể của 賣 mại. Tương tự như Kokuji của người Nhật, người Triều Tiên cũng dùng chữ Hán để tạo thành một số chữ biểu ý riêng trong hệ thống Hanja của họ. Ví dụ 畓 dap = 水 thuỷ + 田 điền, nghĩa là ruộng nước, để phân biệt với 田 là đồng khô; 巭 bu = 功 công + 夫 phu, nghĩa là người lao động. Chữ Choang vuông Sawndip của người Tráng ở cực nam Trung Quốc được phát triển dựa trên chữ Hán và thường được so sánh với chữ Nôm của dân tộc Kinh ở Việt Nam do có nhiều điểm tương đồng giữa hai hệ thống chữ viết này. Tuy nhiên, ngoài những cách tạo chữ tương tự với cách tạo chữ Nôm là giả tá, hình-thanh và hội ý, còn có những chữ vuông Choang được tạo ra bởi những cách sơ khai hơn là tượng hình và chỉ sự Tuy nhiên, cũng nên phân biệt những “chữ nôm” này với những bộ chữ biểu âm như Kana và Hangul trong tiếng Nhật và tiếng Hàn hiện đại. Các phần mềm viết chữ Hán Nôm Có nhiều phần mềm máy tính tạo ra ký tự chữ Nôm bằng cách gõ chữ Quốc ngữ. HanNomIME là phần mềm chạy trên Windows hỗ trợ cả chữ Hán và chữ nôm. Vietnamese Keyboard Set hỗ trợ gõ chữ Nôm và chữ Hán trên Mac OS X. WinVNKey là bộ gõ đa ngôn ngữ trên Windows hỗ trợ gõ chữ Hán và chữ Nôm bằng âm Quốc ngữ. Weasel Hannom là bộ gõ của Ủy ban phục sinh Hán Nôm được xây dựng trên cơ sở bộ gõ Weasel. Phông chữ Nôm nằm trong cơ sở dữ liệu Unihan. VietUnicode là phông Unicode chứa các ký tự chữ Nôm. Nó là một dự án trên SourceForge. Phông TrueType có thể tải về từ. Một số từ điển chữ Nôm trên mạng Internet có Từ điển ở Viện Việt học tiếng Việt Nom character index Tiếng Anh. Trích nguồn → Xem chi tiết về Khóa học viết chữ Hán Nôm và Thư pháp tại đây Chữ Nôm là một trong ba loại hình chữ viết của nước ta. Chữ Nôm có bề dày lịch sử và phản ánh một giai đoạn văn hóa đậm bản sắc dân tộc. Cùng Thanhmaihsk tìm hiểu về chữ Nôm cũng như quá trình phát triển của chữ Nôm suốt chiều dài lịch sử văn hóa nhé! Chữ Nôm là gì? Từ khoảng thế kỷ 12 tổ tiên ta bắt đầu sáng tạo một loại chữ viết nhằm ghi âm tiếng mẹ đẻ, gọi là chữ Nôm. Chữ Nôm được xây dựng trên cơ sở chữ Hán đọc theo âm Hán-Việt, kết hợp cả hai yếu tố biểu ý và biểu âm. Ban đầu chữ Nôm mượn dạng chữ Hán để ghi âm tiếng Việt, dần dần dùng cách ghép hai chữ Hán để tạo ra một chữ mới. Một phần gợi âm, một phần gợi ý, về sau loại chữ tự tạo này được dùng ngày một nhiều. Vậy có bao nhiêu chữ Nôm? Theo tài liệu, vào giữa thế kỷ 17 đã có khoảng chữ Nôm “Bảng tra chữ Nôm” xuất bản năm 1976 cho biết có chữ. “Từ điển Chữ Nôm dẫn giải” của GS Nguyễn Quang Hồng 2015 có chữ Nôm gồm gần chữ tự tạo, ghi âm tiết tiếng Việt. Vì sao con số thống kê lại không đồng nhất? Do chữ Nôm chưa chuẩn hóa nên các số liệu trên có khác nhau. Tuy nhiên có thể thấy tổ tiên ta đã làm được rất nhiều chữ. Chữ Nôm thời xưa đã ghi được rất nhiều âm tiếng Việt đã dùng. Nhưng do cấu tạo trên nền tảng chữ Hán nên chữ Nôm phụ thuộc vào chữ Hán, khó học biết chữ Nho mới học được chữ Nôm, khó phổ cập. Các điểm chính trong quá trình phát triển chữ Nôm Các giai đoạn Sự phát triển Ví dụ Giai đoạn hình thành và phát triển Ban đầu khi mới xuất hiện, chữ Nôm thuần túy mượn dạng chữ Hán y nguyên để ghi âm tiếng Việt cổ mượn âm Hán để chép tiếng Quốc âm. Phép đó gọi là chữ “giả tá” 假借. Dần dần phép ghép hai chữ Hán lại với nhau, một phần gợi âm, một phần gợi ý được dùng ngày càng nhiều và có hệ thống hơn. Phép này gọi là “hài thanh” hoặc “hình thanh” 形聲 để cấu tạo chữ mới. từ 别 âm Hán Việt là biệt, nghĩa phân biệt, ly biệt nhưng được dùng để ghi âm từ biết. Trước thế kỷ 15 Người xưa đã bắt đầu sử dụng chữ Nôm để ghi chép lịch sử, văn thơ Nhà Trần cũng để lại một số tác phẩm chữ Nôm như mấy bài phú của vua Trần Nhân Tông “Cư trần lạc đạo phú” 居塵樂道賦 và “Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca” 得趣林泉成道歌 Thế kỷ 15–17 Chữ Nôm “phồn thịnh”, phần lớn thi văn lưu truyền bằng chữ Nôm Một số là trước tác cảm hứng riêng như Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi, Hồng Đức quốc âm thi tập Lê Thánh Tông và hội Tao đàn Nhị thập bát Tú hay Thiên Nam Minh giám, Thiên Nam ngữ lục Thế kỷ 18–19 Dưới triều đại nhà Tây Sơn, do sự hậu thuẫn của Quang Trung hoàng đế, toàn bộ các văn kiện hành chính bắt buộc phải viết bằng chữ Nôm trong 14 năm, từ 1788 đến 1802. Thời kỳ cuối của chữ Nôm xuất hiện nhiều tác phẩm thi ca như hát nói, thơ hàn luật, song thất lục bát, lúc bát. Đối ngược lại tài liệu văn học thì triết học, sử học, luật pháp, y khoa và ngữ học tuy có được ghi lại bằng chữ Nôm nhưng tương đối ít. Trong những văn bản hành chính thường nhật như sổ sách, công văn, giấy tờ, thư từ, khế ước, địa bạ chỉ đôi khi xen chữ Nôm nếu không thể tìm được một chữ Hán đồng nghĩa để chỉ các danh từ riêng như tên đất, tên làng, tên người, nhưng tổng thể vẫn là văn bản Hán Việt. Thơ Hàn luật của Hồ Xuân Hương hay Bà Huyện Thanh Quan. Thể song thất lục bát cũng lưu lại tác phẩm Cung oán ngâm khúc. Truyện thơ lục bát, trong đó phải kể Truyện Kiều Nguyễn Du và Lục Vân Tiên Nguyễn Đình Chiểu Thời kì suy giảm Dưới chính quyền thuộc địa và bảo hộ của Pháp, vào cuối thế kỷ 19 tại Nam Kỳ và đầu thế kỷ 20 tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ, vị thế của chữ Hán và chữ Nôm bắt đầu giảm sút. Chữ Quốc ngữ được chính quyền thuộc địa bảo hộ qua các nghị định được người Pháp ban ra với mục đich xóa bỏ chữ Hán và chữ Nôm Tại miền Nam, Giáo dục Việt Nam Cộng hòa quy định dạy chữ Hán cho học sinh trung học đệ nhất cấp. Tại miền Bắc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dạy tiếng Trung Quốc là ngoại ngữ cho học sinh phổ thông cấp 2 trong những năm 1957-1959. Khi đất nước thống nhất, chương trình giáo dục phổ thông của nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam không giảng dạy chữ Hán và chữ Nôm. Hiện tại Chữ Nôm và chữ Hán hiện nay không được giảng dạy đại trà trong hệ thống giáo dục phổ thông Việt Nam, tuy nhiên nó vẫn được giảng dạy và nghiên cứu trong các chuyên ngành về Hán-Nôm tại bậc đại học. các nhà ngôn ngữ học về Hán Nôm đã và đang cố gắng chuẩn hoá chữ Nôm toàn diện hơn về mặt chữ, cách viết và âm đọc, đồng thời nỗ lực đưa chữ Nôm được mã hoá lên bộ mã Unicode. Đếnn nay đã có gần chữ Nôm Chữ Nôm từng được gọi là Quốc ngữ hoặc Quốc âm, tức chữ của tiếng nói nước ta chữ Nho chưa bao giờ được gọi như vậy. 1. Mượn cả âm đọc âm Hán Việt và nghĩa của chữ Hán Âm Hán Việt có 3 loại là Âm Hán Việt tiêu chuẩn bắt nguồn từ ngữ âm tiếng Hán thời Đường. Ví dụ “ông” 翁, “bà” 婆 Âm Hán Việt cổ bắt nguồn từ ngữ âm tiếng Hán trước thời Đường. Ví dụ “mùa” 務 âm Hán Việt tiêu chuẩn là “vụ”, Âm Hán Việt Việt hoá là các âm gốc Hán bị biến đổi cách đọc do ảnh hưởng của quy luật ngữ âm tiếng Việt. Ví dụ “ghế” 几 âm Hán Việt tiêu chuẩn là “kỉ”. Ba loại âm Hán Việt kể trên đều được dùng trong chữ Nôm. 2. Mượn chữ Hán đồng âm hoặc cận âm để ghi âm Đọc giống như âm Hán Việt tiêu chuẩn Ví dụ Chữ 沒 – một có nghĩa là chìm được mượn dùng để ghi từ “một” trong “một mình” Đọc chệch âm Hán Việt tiêu chuẩn Ví dụ Chữ 這 – gió mượn âm “giá”, Đọc giống như âm Hán Việt cổ Ví dụ Chữ 膠 – keo “keo” trong “keo dán”, âm Hán Việt tiêu chuẩn là “giao” được dùng để ghi lại từ “keo” trong “keo kiệt” 3. Mượn chữ Hán đồng nghĩa hoặc cận nghĩa Đây là chữ dùng nghĩa chữ Hán, không dùng âm Ví dụ Chữ 能 – năng có nghĩa là có tài, có năng lực được dùng để ghi lại từ “hay” trong “văn hay chữ tốt”. 4. Chữ tự tạo – Chữ hợp thể Đây là chữ được tạo ra bằng cách ghép hai hoặc nhiều hơn chữ khác thành một chữ. Các chữ cấu thành nên chữ ghép có thể đóng vai trò là thanh phù bộ phận biểu thị âm đọc của chữ ghép hoặc nghĩa phù bộ phận biểu thị ý nghĩa của chữ ghép. Một số ví dụ về chữ ghép 蹎 – chân “chân” trong “chân tay” chữ này được cấu thành từ chữ “túc” 足 và chữ “chân” 真. “Túc” 足 có nghĩa là “chân” được dùng làm nghĩa phù biểu thị ý nghĩa của chữ ghép. Chữ “chân” 真 “chân” trong “chân thành” đồng âm với “chân” trong “chân tay” được dùng làm thanh phù biểu thị âm đọc của chữ ghép. Lược bớt nét của chữ Hán để biểu thị phải đọc chệch đi Lược bớt ít nhất là một nét của một chữ Hán nào đó để báo cho người đọc biết rằng chữ này phải đọc chệch đi. Ví dụ ? – ấy lược nét chấm “丶” trên đầu chữ “ý” 衣. Việc lược bớt nét bút này gợi ý cho người đọc biết rằng chữ này không đọc là “y” hay “ý” mà cần đọc chệch đi. 5. Mượn âm của chữ Nôm có sẵn Dùng chữ Nôm có sẵn để ghi lại từ tiếng Việt đồng âm hoặc cận âm; nhưng khác nghĩa hoặc đồng nghĩa, khác âm với từ được mượn. Ví dụ Chữ ? – chín “chín” trong “chín người mười ý” được dùng để ghi từ “chín” trong “nấu chín”. Chữ ? – đá ? “đá” trong “hòn đá” được dùng để ghi từ “đứa” trong “đứa bé”. Chữ Nôm có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa của nước Việt Nam. Ghi lại được tiếng nói, chữ viết của dân ta. Vậy nên dù chữ Nôm khó học nhưng vẫn được sử dụng rộng rãi. Ngoài văn hoá dân gian truyền miệng còn có dòng văn học chữ viết, lúc đầu là chữ Hán, sau chữ Nôm rồi đến chữ Quốc ngữ như ngày nay. Dòng văn học này trải qua nhiều thời kì. Những văn bản sớm nhất hiện tìm thấy có từ thế kỉ thứ X, tạm chia làm hai giai đoạnTừ thế kỉ thứ X đến thế kỉ XIX Từ đầu thế kỉ XX đến này. Bạn đang xem Các tác phẩm văn học chữ hán Từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX Trong giai đoạn này, văn học thành văn được viết bằng hai thứ chữ chữ Hán và chữ Nôm. Mặc dù trải qua một nghìn năm Bắc thuộc, người Việt Nam không bị đồng hoá mà dần dần hình thành bản sắc dân tộc riêng biệt. Chữ Nôm xuất hiện từ rất sớm nhưng từ thế kỉ XVI trở đi văn học chữ Nôm mới thịnh hành và đến thế kỉ XVIII thì văn học chữ Nôm chiếm một vị trí rất lớn. Sự phát triển về ý thức dân tộc đã tạo điều kiện cho văn học chữ Nôm ngày càng phát triển. Văn học chữ viết hình thành và phát triển Trong nhiều thế kỉ, văn học chữ Hán chiếm vị trí chủ yếu trừ một vài trường hợp như triều Hồ Quý Ly và Quang Trung coi trọng chữ Nôm, tuy sử dụng chữ Hán nhưng các tác phẩm văn học ấy vẫn thấm đượm tính cách và tâm hồn Việt Nam như bài thơ Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, những bài thơ ca ngợi chiến thắng của quân dân nhà Trần của Phạm Ngũ. Lão, Trần Quang Khải, Phạm Sư Mạnh, Cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi, vv. Tiếp đến là những bộ sử dược viết với một ý thức dân tộc mạnh mẽ Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn Phái, w. Thế kỉ XV, văn học chữ Hán vẫn chiếm ưu thế. Tuy vậy văn học chữ Nôm vẫn không ngừng phát triển. Nguyễn Trãi là người nêu cao tiếng Việt và vận dụng chữ Nôm vào sáng tác văn học. Tập thơ Quốc Âm thi tập của Nguyễn Trãi trong thời kì này là một trong những tập thơ Nôm xưa nhất có giá trị đến ngày nay. Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX, văn học chữ Nôm phát triển rực rỡ chiếm ưu thế hoàn toàn trên văn đàn. Những nhà thơ lớn đã khai thác triệt để ngôn ngữ của dân tộc, nhiều tác phẩm tiêu biểu ra đời Thơ Nôm của Hồ Xuân Hương, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, w, Từ đầu thế kỉ XX đến nay. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, các tác phẩm văn học bằng chữ Quổe ngữ dần dần xuất hiện. Nền văn học Việt Nam hiện nay không chỉ tiếp thu và chịu ảnh hưởng của nền văn học Trung Quốc mà còn tiếp thu cả nền văn học phương Tây đặc biệt là văn học Pháp, đã đưa nền văn học Việt Nam phong phú hơn và đa dạng hơn về thể loại. Văn học Việt Nam dần dần đã tách khỏi phong cách cổ điển với những điển tích nặng nề, linh hoạt hơn, chính xác hơn và gần với ngôn ngữ hàng ngày hơn. Năm 1925, những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam ra đời Tố Tàm của Hoàng Ngọc Phách, Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật. Phong trào thơ mới được coi là “một cuộc cách mạng” trong thơ ca, những quy tắc gò bó, lối diễn đạt ước lệ, công thức bị phá bỏ, cảm xúc được diễn tả tự nhiên, cởi mở hơn, lãng mạn hơn. Xem thêm Trong phong trào thơ mới xuất hiện nhiều nhà thơ tài năng Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Xuân Diệu, Huy Cận, Tản Đà, more Ý Nghĩa Của Từ Ew Nghĩa Là Gì Trong Tiếng Việt? Ew Là Gì, Ew Viết Tắt, Định Nghĩa, Ý Nghĩa Về Văn học lãng mạn nổi lên có nhóm Tự lực văn đoàn được thành lập năm 1932 gồm Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam và một số nhà văn trẻ, w. Dòng văn học này tuy có nhiều tiến bộ trong sáng tác nhưng không tránh khỏi những hạn chế về mặt tư tưởng. Bên cạnh trào lưu văn học lãng mạn phải kể đến dòng Văn học hiện thực phê phán. Các sáng tác của trào lưu văn học này có tính chân thực cao và thăm đượm tinh thần nhẫn dạo. Trào lưu này đã cho ra dời những tác phẩrn thật sự xuất sắc cả về nội dung và hình thức như Bước dường cùng của Nguyễn Công Hoan, Tắt đèn của Ngô Tẩt Tố, Vỡ đê, Giông tố của Vũ Trọng Phụng, Bi vò của Nguyễn Hồng, Chí Phèo của Nam Cao, w. Cùng với hai trào lưu trên còn có trào lưu Văn học cách mạng nhưng không được lưu hành hợp pháp tuy có lúc được lưu hành hợp pháp. Trào lưu văn học này gồm những thơ văn của các chiến sĩ cách mạng ở trong tù và những tác phẩm được xuất bản trên báo chí nước ngoài. Những tác giả tiêu biểu cho trào lưu này là Hồ Chí Minh, Sóng Hồng, Tố Hữu, Xuân Thuỷ, vv. Cuộc cách mạng tháng Tám thành công, nền Văn học hiện đại được phát triển mạnh mẽ. Những tác phẩm ra đời trong thời kì này như những mốc son đánh dấu từng giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc. Các tác phẩm Con trâu của Nguyễn Văn Bổng, Vùng mỏ của Võ Huy Tầm, Xung Kích của Nguyễn Đình Thi, Tuỳ bút của Nguyễn Tuân, w. là thành quả của nền văn học trong những năm kháng chiến chống Pháp. Cuộc kháng chiến chống Mĩ kéo dài 21 năm, nhiều tác phấm văn học nổi tiếng đã ra đời, phản ánh cuộc đấu tranh vô cùng anh dũng của đồng bào và chiến sĩ cả nước như Hòn đất của Anh Đức, Gia đình má Bẩy, Mẫn và tôi của Phan Tứ, Trên đất Quảng, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi. Và các tác phẩm thơ Quê hương của Giang Nam, Dáng dứng Việt Nam của Lê Anh Xuân, Bài ca Chim Chơ-rao của Thu Bồn, Gió Lào cát trắng của Xuân Quỳnh, w. Xem thêm Hiện nay các nhà văn, nhà thơ đang có gắng đưa văn học Việt Nam sang một giai đoạn mới, góp phần xây dựng một nước Việt Nam đi lên trong hoà bình và ổn more Các Món Chế Biến Từ Cá Trê Lai Vừa Lạ Miệng Lại Thơm Ngon Hết Ý Thông báo Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem. Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu * Lưu tên của tôi, email, và trang web trong trình duyệt này cho lần bình luận kế tiếp của tôi. Ngoài văn hoá dân gian truyền miệng còn có dòng văn học chữ viết, lúc đầu là chữ Hán, sau chữ Nôm rồi đến chữ Quốc ngữ như ngày nay. Dòng văn học này trải qua nhiều thời kì. Những văn bản sớm nhất hiện tìm thấy có từ thế kỉ thứ X, tạm chia làm hai giai đoạn Từ thế kỉ thứ X đến thế kỉ XIX Từ đầu thế kỉ XX đến này. Bạn đang xem Các tác phẩm văn học chữ hán Từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX Trong giai đoạn này, văn học thành văn được viết bằng hai thứ chữ chữ Hán và chữ Nôm. Mặc dù trải qua một nghìn năm Bắc thuộc, người Việt Nam không bị đồng hoá mà dần dần hình thành bản sắc dân tộc riêng biệt. Chữ Nôm xuất hiện từ rất sớm nhưng từ thế kỉ XVI trở đi văn học chữ Nôm mới thịnh hành và đến thế kỉ XVIII thì văn học chữ Nôm chiếm một vị trí rất lớn. Sự phát triển về ý thức dân tộc đã tạo điều kiện cho văn học chữ Nôm ngày càng phát triển. Văn học chữ viết hình thành và phát triển Trong nhiều thế kỉ, văn học chữ Hán chiếm vị trí chủ yếu trừ một vài trường hợp như triều Hồ Quý Ly và Quang Trung coi trọng chữ Nôm, tuy sử dụng chữ Hán nhưng các tác phẩm văn học ấy vẫn thấm đượm tính cách và tâm hồn Việt Nam như bài thơ Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, những bài thơ ca ngợi chiến thắng của quân dân nhà Trần của Phạm Ngũ. Lão, Trần Quang Khải, Phạm Sư Mạnh, Cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi, vv. Tiếp đến là những bộ sử dược viết với một ý thức dân tộc mạnh mẽ Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn Phái, w. Thế kỉ XV, văn học chữ Hán vẫn chiếm ưu thế. Tuy vậy văn học chữ Nôm vẫn không ngừng phát triển. Nguyễn Trãi là người nêu cao tiếng Việt và vận dụng chữ Nôm vào sáng tác văn học. Tập thơ Quốc Âm thi tập của Nguyễn Trãi trong thời kì này là một trong những tập thơ Nôm xưa nhất có giá trị đến ngày nay. Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX, văn học chữ Nôm phát triển rực rỡ chiếm ưu thế hoàn toàn trên văn đàn. Những nhà thơ lớn đã khai thác triệt để ngôn ngữ của dân tộc, nhiều tác phẩm tiêu biểu ra đời Thơ Nôm của Hồ Xuân Hương, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, w, Từ đầu thế kỉ XX đến nay. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, các tác phẩm văn học bằng chữ Quổe ngữ dần dần xuất hiện. Nền văn học Việt Nam hiện nay không chỉ tiếp thu và chịu ảnh hưởng của nền văn học Trung Quốc mà còn tiếp thu cả nền văn học phương Tây đặc biệt là văn học Pháp, đã đưa nền văn học Việt Nam phong phú hơn và đa dạng hơn về thể loại. Văn học Việt Nam dần dần đã tách khỏi phong cách cổ điển với những điển tích nặng nề, linh hoạt hơn, chính xác hơn và gần với ngôn ngữ hàng ngày hơn. Năm 1925, những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam ra đời Tố Tàm của Hoàng Ngọc Phách, Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật. Phong trào thơ mới được coi là “một cuộc cách mạng” trong thơ ca, những quy tắc gò bó, lối diễn đạt ước lệ, công thức bị phá bỏ, cảm xúc được diễn tả tự nhiên, cởi mở hơn, lãng mạn hơn. Trong phong trào thơ mới xuất hiện nhiều nhà thơ tài năng Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Xuân Diệu, Huy Cận, Tản Đà, w. Về Văn học lãng mạn nổi lên có nhóm Tự lực văn đoàn được thành lập năm 1932 gồm Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam và một số nhà văn trẻ, w. Dòng văn học này tuy có nhiều tiến bộ trong sáng tác nhưng không tránh khỏi những hạn chế về mặt tư tưởng. Bên cạnh trào lưu văn học lãng mạn phải kể đến dòng Văn học hiện thực phê phán. Các sáng tác của trào lưu văn học này có tính chân thực cao và thăm đượm tinh thần nhẫn dạo. Trào lưu này đã cho ra dời những tác phẩrn thật sự xuất sắc cả về nội dung và hình thức như Bước dường cùng của Nguyễn Công Hoan, Tắt đèn của Ngô Tẩt Tố, Vỡ đê, Giông tố của Vũ Trọng Phụng, Bi vò của Nguyễn Hồng, Chí Phèo của Nam Cao, w. Cùng với hai trào lưu trên còn có trào lưu Văn học cách mạng nhưng không được lưu hành hợp pháp tuy có lúc được lưu hành hợp pháp. Trào lưu văn học này gồm những thơ văn của các chiến sĩ cách mạng ở trong tù và những tác phẩm được xuất bản trên báo chí nước ngoài. Những tác giả tiêu biểu cho trào lưu này là Hồ Chí Minh, Sóng Hồng, Tố Hữu, Xuân Thuỷ, vv. Cuộc cách mạng tháng Tám thành công, nền Văn học hiện đại được phát triển mạnh mẽ. Những tác phẩm ra đời trong thời kì này như những mốc son đánh dấu từng giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc. Các tác phẩm Con trâu của Nguyễn Văn Bổng, Vùng mỏ của Võ Huy Tầm, Xung Kích của Nguyễn Đình Thi, Tuỳ bút của Nguyễn Tuân, w. là thành quả của nền văn học trong những năm kháng chiến chống Pháp. Cuộc kháng chiến chống Mĩ kéo dài 21 năm, nhiều tác phấm văn học nổi tiếng đã ra đời, phản ánh cuộc đấu tranh vô cùng anh dũng của đồng bào và chiến sĩ cả nước như Hòn đất của Anh Đức, Gia đình má Bẩy, Mẫn và tôi của Phan Tứ, Trên đất Quảng, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi. Và các tác phẩm thơ Quê hương của Giang Nam, Dáng dứng Việt Nam của Lê Anh Xuân, Bài ca Chim Chơ-rao của Thu Bồn, Gió Lào cát trắng của Xuân Quỳnh, w. Hiện nay các nhà văn, nhà thơ đang có gắng đưa văn học Việt Nam sang một giai đoạn mới, góp phần xây dựng một nước Việt Nam đi lên trong hoà bình và ổn định. Nguồn

văn học chữ hán và chữ nôm