văn học vị nhân sinh

PGS.TS Bùi Quang Thắng. Viện Văn Hóa Nghệ Thuật Việt Nam Nhân học- kể từ khi Malinowsky đề xuất rằng, mục tiêu cuối cùng của các nhà dân tộc học, nhân học là "nắm bắt cách nhìn nhận của người bản địa, mối quan hệ của họ với đời sống, hiểu được sự nhìn nhận của họ về thế giới của họ Hành vi nào không đúng khi xây dựng gia đình văn hóa A. Là chủ tịch xã Ông H luôn bao che cho con mình để đạt thành tích gia đình văn hóa B. Gia đình Ông B luôn giúp đỡ mọi người lúc khó khăn C. Ông H luôn chăm lo cho gia đình chu đáo, với mọi người Ông có thái độ hòa nhã D Xin hãy làm như vậy, và nếu các vị thực hiện điều đó, hãy chờ xem con mình chinh phục thế giới. Một kỳ thi hay một điểm số kém sẽ không thể gạt bỏ đi những ước mơ và tài năng bên trong của các con. Và cuối cùng, xin đừng nghĩ rằng chỉ có kỹ sư hay bác sĩ mới là những người hạnh phúc duy nhất trên thế giới này. Trân trọng, Hiệu trưởng". 👩‍🏫 NỮ GIẢNG VIÊN TRẺ ĐƯỢC GIÁM ĐỐC ĐHQG-HCM KHEN THƯỞNG VÌ DẠY TRỰC 📌 Học phần Thực hành tiếng tổng hợp 3 được thạc sĩ Nguyễn Lê Ánh Phương thiết kế bài giảng theo các tiêu chí thiết kế khoá học, về phương pháp giảng dạy và đánh giá, về kết quả học tập của sinh viên, về khả năng Hội Sinh viên; Các đơn vị trực thuộc trường; Sinh hoạt khoa học bộ môn. Học kỳ 1 - 2021-2022; Học kỳ 2 - 2021-2022; Trường Đại học Kinh tế Quốc dân nhân dịp 45 năm K19 (1977 - 1981) tựu trường. Khai mạc khóa đào tạo, tập huấn về tiêu chuẩn đăng bài NCKH lên báo materi pai kelas 4 semester 2 kurikulum 2013. Mỗi người cầm bút thường chọn cho mình một hướng đi. Một số người sử dụng cây bút để đạt được danh tiếng như một nhà văn hoặc nhà thơ. Có những người không cần chữ, chỉ muốn cầm bút tự sướng, cứ thế viết mà không cần biết cuộc sống xung quanh mình ra sao, tả cảnh tùy ý, trong khi đạo đức xã hội sa sút, nhưng cái tình, cái cảnh thì vẫn đẹp trong giấc mơ selfie của tôi. Có những nhà văn vì muốn đóng góp khả năng của mình để mở mang dân trí. Ở nước ngoài, những người thích danh hiệu nhà văn hoặc nhà thơ nên trả tiền cho ai đó để viết một tác phẩm cho họ, sau đó ghi tên họ vào đó và để người khác cổ vũ cho họ để đạt được danh hiệu trong văn học. .Hay tự viết một vài tác phẩm, rồi sau khi đạt danh hiệu “nhà văn”, “nhà thơ”, bạn không còn đủ tâm trí để sáng tạo thêm nhiều tác phẩm nữa. Ngay cả những bình luận kiểu “nhà văn, nhà thơ” trên facebook fb này cũng chỉ là chia sẻ share bình luận hiện tại của người khác; và những “nhà văn, nhà thơ” này không chỉ là những bình luận thông thường như bao người vài lời, thêm Chưa kể những bài viết có giá trị, không thể viết bình luận tử tế trên fb của họ. Những người khác đang ở trên fb. Bạn đang xem Văn học vị nhân sinh là gì Ở Trung Quốc, những “nhà văn và nhà thơ” tự lập cứ xuất bản những bức chân dung tự họa mà không cần biết xã hội ra sao. Cả nước mất quyền lực dấu ngã cố ý và mất tự do, nhưng những “nhà văn, nhà thơ” này vẫn luôn tự hào về bản thân và ca ngợi chiến công của họ. Cả nước đang bị đô hộ bởi kiểu Tân Trung Hoa, các ông hoàng thời hiện đại thì dốt nát, nhưng những “văn nhân, văn sĩ” này lại nghiễm nhiên “yêu nước” như thiếu niên, yêu mù quáng, mê muội mãi không thôi. Trong khi gia tài đã bị csvn cuỗm mất, cũng không có gì phải khoe khoang. Hãy loại bỏ những “nhà văn, nhà thơ” theo cách nói của alan phan không có đất dụng võ, đối với những nhà văn, nhà thơ thực sự tài năng, câu hỏi đặt ra cho những người này, hay cho những ai muốn chọn văn và thơ ca là Nơi mở mang dân trí – giữa văn học cho con người và văn học nghệ thuật, trong sáng tác, nên chọn cái nào? Văn học luôn phản ánh hiện thực xã hội. Tất cả những tác phẩm có giá trị trong lĩnh vực văn học đều là những tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội mà tác giả đang sống. Đây cũng là điều dễ hiểu, bởi những nhà văn tài năng nhìn ra được nỗi thống khổ của đất nước, của xã hội, thấy được những con người cần được ghi nhận, họ gửi gắm tình cảm của mình vào tác phẩm để chia sẻ với những con người đang sống trong xã hội ấy, hay cho những thế hệ mai sau. những sự kiện có thật của một đoạn lịch sử đã xảy ra trong xã hội đó, đất nước đó, con người đó. Khi viết những tác phẩm phản ánh sự thật xã hội, người viết không đặt mục tiêu đoạt giải thưởng văn học nghệ thuật. Trái tim nhà văn rỉ máu trước hiện thực xã hội. Từ sự đổ máu đó, tác phẩm này ra đời, bằng cả trái tim và tâm hồn tác giả dành cho tác phẩm, cho tiếng nói của những người không thể thể hiện được qua chữ viết. Tác giả muốn gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh mọi người – để thay đổi xã hội, thay đổi lối suy nghĩ phi nhân văn hiện có, và tạo ra một xã hội tiến bộ hơn, nhân văn hơn. Sự xuất hiện của nhóm Tự lực văn đoàn từ năm 1932 đến năm 1942, và những tác phẩm đổi đời như “Hồn bướm”, “Giấc mơ cổ tích”, “Ngày tận thế”, “Banchun”, là những tác phẩm tiêu biểu. về thực tế. xã hội. , đã nói lên chân lý của con người thì mọi người trong xã hội đều phải đối mặt với nó và phải lựa chọn giải pháp cho mình. Mục tiêu đầu tiên của sự tự lập của Van Dogan là mỗi thành viên phải tạo ra cho mình một tác phẩm văn học có giá trị. Nhưng để làm được điều này, tác phẩm phải phù hợp với cuộc sống, xã hội hiện tại. Chính ở điểm này, một số tác phẩm của nhóm Tự lực văn đoàn Fan Duoan được đưa vào danh sách những tác phẩm đáng đọc, có giá trị văn hóa nghệ thuật. Văn học luôn phù hợp với cuộc sống ngày nay. Trước thực trạng băng hoại của xã hội, văn học miêu tả sự băng hoại của xã hội, tác giả đã đặt câu hỏi về vấn đề băng hoại trên và đưa nó vào tác phẩm của chính mình. Không chỉ đơn giản ghi lại sự tham nhũng đó, tác giả quan tâm đến sự thối nát đó và muốn tìm ra giải pháp thông qua tác phẩm của chính mình, hoặc tự đặt câu hỏi cho độc giả. .Chính cuộc sống hiện tại mang đến cho cuộc sống, sự thật, tính nhân văn hay sự tàn nhẫn được phơi bày trong tác phẩm, và theo thời gian tác phẩm trở thành hương vị của nghệ thuật. Sau đó, văn học bắt đầu với cuộc sống của con người. Không có con người, không có yếu tố hiện thực của xã hội, văn học trở thành văn chương khập khiễng, lạc lõng. Một nhà văn sẵn sàng đi lạc khỏi sự thật để tâng bốc sự giả dối, điều không xảy ra trong xã hội ngày nay – đây là một nhà văn bệnh hoạn, vô nhân cách; con người, nhưng quá nông nổi, không cảm nhận được sự khốn cùng của xã hội để thể hiện đúng thực tế của xã hội. Văn học xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một ví dụ điển hình. Ngoài các tác phẩm Trăm hoa đua nở ở miền Bắc sau năm 1954, và phong trào văn học nghệ thuật của Nguyễn Văn Lâm năm 1985 – thì vẫn còn nguyên giá trị văn học vì những tác phẩm này nói lên sự thật của xã hội và những trăn trở. của tác giả, và phần còn lại đều là Công việc bệnh hoạn. Bệnh đến mức nhà phê bình văn học nổi tiếng Cui Leiwang tin rằng khi người ta ăn cắp thơ của người khác và chỉnh sửa để nó có giá trị hơn thì người ăn cắp thơ cũng được coi là một người tài năng. Ngay cả trong lĩnh vực văn học, nơi sự ăn cắp đáng được ca ngợi, thì văn học xã hội chủ nghĩa cũng chỉ là thứ văn học bị ăn cắp một cách bệnh hoạn. Ca ngợi kẻ trộm làm cho bài thơ có giá trị hơn, hoặc có lẽ khuyến khích đạo văn. Nhưng nếu nó là đạo văn, nó không phải của bạn – nếu nó bị ăn cắp, nó vô giá trị. Có lẽ quan điểm về văn học xã hội chủ nghĩa khác với thế giới. Cũng như bản chất của chủ nghĩa xã hội cũng khác với xu thế thế giới, nên không có gì ngạc nhiên khi đánh giá văn học xã hội chủ nghĩa. Tại thời điểm này, câu trả lời đã rõ ràng. Văn học bắt đầu từ cuộc sống của con người, phục vụ cuộc sống của con người, và phục vụ con người. Giá trị nghệ thuật có được nếu tác giả biết lồng ghép đời sống con người vào tác phẩm của mình, tạo nên một tác phẩm chân thực mô tả đời sống xã hội mà tác giả đang sống và truyền lại cho thế hệ sau. Nếu văn học chẳng qua là thứ tự luyến, thì văn hóa của một dân tộc là thứ văn hóa giả dối, thứ văn hóa bệnh hoạn. Nhưng quốc gia nào thoát khỏi thứ văn hóa bệnh hoạn này thì sớm muộn gì cũng diệt vong. Liệu dân tộc Việt Nam, với nền văn hiến hơn năm, liệu có tồn tại được trong vài trăm năm tới, hay sẽ trở thành một mảnh ghép của dân tộc Trung Hoa? Đây là câu hỏi mà tất cả người Việt Nam trên toàn thế giới vẫn đang quan tâm đến sự tồn vong của dân tộc Việt Nam và cần tìm câu trả lời cho chính mình và dân tộc mình. Vua của bộ tứ Tháng 8 năm 2016 Dallas, TX Chủ đề văn học vị nhân sinh là gì Văn học vị nhân sinh là sự kết hợp giữa nghệ thuật và triết học, nhằm nói lên giá trị nhân văn và ý nghĩa cuộc sống. Tác phẩm văn học vị nhân sinh giúp người đọc hiểu rõ hơn về bản chất con người và cách tìm kiếm ý nghĩa trong cuộc sống. Cùng với sự phát triển của văn học vị nhân sinh, xu hướng ẩm thực và du lịch cũng đang được khai thác để tăng cường trải nghiệm văn hóa cho người lụcVăn học vị nhân sinh là khái niệm gì? Tác phẩm văn học nào nổi tiếng được coi là tư tưởng về văn học vị nhân sinh? Tác giả nào đã đưa ra lý thuyết văn học vị nhân sinh? Văn học vị nhân sinh ảnh hưởng đến văn học hiện đại như thế nào? Nêu ví dụ về tác phẩm văn học hiện đại mang đậm tư tưởng về văn học vị nhân sinh?YOUTUBE Học Văn Vị Nghệ Thuật Hay Vị Nhân Sinh? 2023Văn học vị nhân sinh là khái niệm gì? Văn học vị nhân sinh là một khái niệm trong triết học văn học, bao gồm ý tưởng rằng nghệ thuật, đặc biệt là văn học, có thể và nên được sử dụng để nâng cao đời sống xã hội và con người, thậm chí đưa ra giải pháp cho các vấn đề xã hội. Để hiểu rõ hơn về khái niệm này, ta cần nghiên cứu và phân tích các tác phẩm văn học có chủ đề liên quan đến vị nhân sinh, như tiểu thuyết \"Truyện Kiều\" của Nguyễn Du hay truyện \"Chí Phèo\" của Nam Cao. Những tác phẩm này tập trung vào việc sử dụng tâm trí và tình cảm để chứng minh mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống con người. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm văn hóa được hiểu theo ba nghĩa rộng, bao gồm cả nghệ thuật, khoa học, công nghệ, văn hóa vật thể; nghĩa hẹp chỉ đề cập đến trình độ học vấn và văn hóa phẩm cá nhân; cũng như nghĩa chung chỉ về toàn bộ văn hóa một dân tộc. Tóm lại, văn học vị nhân sinh đánh dấu sự phát triển và tăng cường sự hiểu biết về nghệ thuật và văn hóa trong đời sống con người, giúp cho mỗi cá nhân hoàn thiện hơn và đóng góp tích cực hơn vào xã phẩm văn học nào nổi tiếng được coi là tư tưởng về văn học vị nhân sinh? Trong văn học Việt Nam, có một tác phẩm nổi tiếng được xem như tư tưởng về văn học vị nhân sinh đó là \"Tắt đèn\" của nhà văn Ngô Tất Tố. Tác phẩm này được viết vào năm 1946, kể về cuộc đời của một người nghèo khổ, luôn phải đấu tranh để sống sót và giành được chút hạnh phúc trong cuộc đời. Bằng cách miêu tả hành trình tim đường sống của nhân vật chính, tác giả Ngô Tất Tố đã khắc họa được những góc khuất trong xã hội như sự bất công, mất cân bằng trong phân phối tài nguyên, cũng như những đau thương của những người lụy tình, lụy danh, lụy tiền. Tác phẩm \"Tắt đèn\" đã góp phần xây dựng lên văn học Việt Nam, đồng thời mang lại sự tiếng tăm cho nhà văn Ngô Tất giả nào đã đưa ra lý thuyết văn học vị nhân sinh? Tác giả đưa ra lý thuyết văn học vị nhân sinh là người Pháp Auguste Comte 1798-1857. Ông là một nhà toán học, vật lý học, thiên văn học, nhà lý thuyết xã hội và triết học thực chứng. Ông khẳng định rằng văn học không chỉ là việc sáng tạo nghệ thuật mà còn là cách để hiểu thế giới xung quanh chúng ta, tác động đến tư duy và hành động của con người. Văn học vị nhân sinh được coi là lý thuyết tổng thể với mục đích nhằm đưa ra những giải pháp cho các vấn đề xã hội và định hướng cho sự tiến bộ của loài người. Tuy nhiên, lý thuyết này hiện tại không còn được sử dụng nhiều trong giới triết học và văn học hiện học vị nhân sinh ảnh hưởng đến văn học hiện đại như thế nào? Văn học vị nhân sinh là một khái niệm được đặt ra bởi nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, để chỉ tầm quan trọng của việc viết văn học đối với cuộc sống và nhân sinh của con người. Văn học vị nhân sinh là sự kết hợp giữa những yếu tố văn học và những giá trị và ý nghĩa sâu sắc của cuộc sống. Văn học hiện đại Việt Nam đã được ảnh hưởng rất nhiều bởi thế hệ các nhà văn đã bước đầu khám phá và phát triển khái niệm văn học vị nhân sinh. Các tác phẩm văn học hiện đại như \"Dế Mèn Phiêu Lưu Ký\" của Tô Hoài, \"Số Đỏ\" của Vũ Trọng Phụng hay \"Nỗi Buồn Chiến Tranh\" của Bảo Ninh đều có sự hiện diện rõ ràng của tư tưởng văn học vị nhân sinh. Những tác phẩm này là những tác phẩm không chỉ thể hiện một phần cuộc đời và tâm hồn của tác giả mà còn giúp ta hiểu rõ hơn về tác động của xã hội, của cuộc sống đến con người. Văn học vị nhân sinh là một trong những yếu tố đã giúp cho văn học hiện đại Việt Nam đạt được một vị trí đặc biệt trong cộng đồng văn học quốc tế. Những tác phẩm này đã giúp cho văn học hiện đại Việt Nam được đánh giá là có tính chất sâu sắc và thể hiện được những giá trị đặc trưng của dân tộc Việt ví dụ về tác phẩm văn học hiện đại mang đậm tư tưởng về văn học vị nhân sinh?Một ví dụ về tác phẩm văn học hiện đại mang đậm tư tưởng về văn học vị nhân sinh là tiểu thuyết \"Cho tôi xin một vé về tuổi thơ\" của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Tác phẩm này được xem là một trong những tác phẩm nổi tiếng và gây tiếng vang lớn trong giới văn học Việt Nam. Trong tiểu thuyết, tác giả đã miêu tả cuộc sống và cuộc phiêu lưu của nhân vật chính - một cậu bé trên con đường tuổi thơ, thông qua đó tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ gìn và bảo vệ tuổi thơ trong cuộc sống hiện đại, đồng thời thể hiện tư tưởng về sự trưởng thành và khát khao tìm kiếm về bản Văn Vị Nghệ Thuật Hay Vị Nhân Sinh? 2023Văn học vị nhân sinh luôn là niềm tự hào của văn học Việt Nam. Năm 2023, với sự bùng nổ của văn học trẻ, chúng ta đã có thêm nhiều tác phẩm xuất sắc, lấy cảm hứng từ cuộc sống và mang đến những giá trị nhân văn sâu sắc. Điều đó giúp khán giả hiểu hơn về tình cảm, nhân sinh và trân trọng thêm tình yêu đất nước. Chủ Nghĩa Vị Nhân Sinh 2023Chủ nghĩa vị nhân sinh đang được nhiều người quan tâm và ứng dụng trong đời sống. Đó là cách sống đạo đức, giá trị tình thương và quan hệ tình cảm giữa con người với nhau và với thiên nhiên. Những tác phẩm mang thông điệp này truyền cảm hứng, động viên và thêm hiểu biết về tầm quan trọng của các giá trị nhân sinh trong cuộc sống. Vũ Trụ Văn Học Môn Văn và Tầm Quan Trọng Với Cuộc Đời 2023Vũ trụ văn học luôn là chủ đề hấp dẫn đối với người yêu văn học và khoa học. Vào năm 2023, một loạt các tác phẩm đa dạng về vũ trụ đã xuất hiện, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vũ trụ và vẻ đẹp của nó. Chúng mang đến những giá trị đáng kinh ngạc, khai sáng và giúp ta cảm nhận được rất nhiều kỳ quan của vũ trụ. Nghệ thuật không chỉ mang những giá trị về cái đẹp mà còn có nhiều tầng lớp ý nghĩa, nội dung mà người nghệ sĩ muốn truyền tải. Tùy vào mục đích, cách truyền tải thông điệp và giá trị nghệ thuật. Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh sẽ có những khái niệm và góc nhìn khác nhau. 1. Nghệ thuật là gì? Là những hoạt động sáng tạo khác nhau tạo nên những sản phẩm mang nhiều giá trị. Như giá trị văn hóa, thẩm mỹ, tinh thần, tư tưởng. Thông quan hoạt động nghệ thuật, nghệ thuật mang đến cái đẹp cho cuộc sống. Đồng thời người làm nghệ thuật cũng gửi tâm sự, suy nghĩ, ước vọng, cảm xúc của mình đến với người thưởng thức. Nghệ thuật chứa đựng rất nhiều giá trị và phong phú về các lĩnh vực để thể hiện. Do đó, hiện nay nghệ thuật có thể mang nhiều thông điệp về Giáo dục, nhận thức. Truyền thông, giao tiếp. Giải trí. Thẩm mỹ. Có thể bằng cách này hay cách khác, bằng loại hình này hay loại hình khác. Nhưng cái đẹp, tính thẩm mỹ luôn là người bạn song hành cùng nghệ thuật. 2. Các loại hình nghệ thuật. Các loại hình thuộc nghệ thuật thị giác. Là các loại hình nghệ thuật được tiếp cận thông qua kênh thị giác. Những sản phẩm thuộc loại hình nghệ thuật này được sáng tạo, thiết kế dựa trên những nguyên lý thị giác. Nhằm hướng những chuẩn mực giá trị về mặt thẩm mỹ. Bao gồm các loại hình tiêu biểu Kiến trúc Điêu khắc Hội họa ​ Các loại hình nghệ thuật trình diễn. Phương tiện của nghệ thuật thị giác là màu sơn, đất sét, kim loại…Còn đối với nghệ thuật trình diễn thì phương tiện là âm thanh, nhạc cụ, diễn xuất….Người nghệ sĩ sẽ biểu diễn, truyền đạt nội dung, giá trị nghệ thuật trước công chúng. Tiêu biểu Âm nhạc. Sân khấu. Điện ảnh. Múa, nhảy. ​ 3. Nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh. Nghệ thuật vị nghệ thuật. Nghệ thuật vị nghệ thuật hướng đến thuộc tính và giá trị nội tại của nghệ thuật. Giá trị nội tại này là giá trị về một nghệ thuật chân chính, đích thực. Theo định hướng đó, nghệ thuật chỉ nên hướng về chính bản thân nó. Ví dụ như họa sĩ vẽ tranh phong cảnh thì họ chỉ quan tâm đến nét đẹp phong cảnh đó. Và thể hiện nét đẹp đó trong tác phẩm của mình sao cho hoàn hảo nhất đã là đạt yêu cầu. Khi hướng đến giá trị thẩm mĩ của nghệ thuật, có thể nói đó là ý nghĩa của nghệ thuật vị nghệ thuật. Nghệ thuật vị nhân sinh. Nghệ thuật vị nhân sinh thì hướng đến mục đích làm nghệ thuật và chức năng của nghệ thuật. Mà cụ thể là hướng về con người, đời sống, xã hội. Vì vậy nghệ thuật vị nhân sinh sẽ mang nhiều nhiệm vụ hơn, truyền tải nhiều thông điệp hơn. Như trong một số những giai đoạn lịch sử, nghệ thuật như tấm gương phản chiếu đời sống hiện thực của xã hội. Như tác phẩm nổi tiếng “Những người khốn khổ” của Victor Hugo. Người nghệ sĩ đã thông qua hoạt động nghệ thuật để phản ánh nỗi khổ đau của tầng lớp người dân trong bối cảnh thời đó. Nghệ thuật vị nghệ thuật, nghệ thuật vị nhân sinh là góc nhìn của mỗi người. Trong lịch sử từng có nhiều sự tranh luận về nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh. Cái nào sẽ đúng và phù hợp hơn? Cái nào mới là nghệ thuật thật sự? Nghệ thuật thật sự thì nên hướng về bản thân nó hay hướng về con người, xã hội? Có lẽ những câu hỏi này đến nay vẫn sẽ là đề tài tranh luận. Nhưng trong bài viết chia sẻ này, ta không bàn luận về điều này. Vì nghệ thuật có tiếng nói riêng. Một tiếng nói không chỉ nghe bằng tay, hay có thể nói bằng lời. Một ngôn ngữ mà người học lưu loát chưa chắc đã có thể hiểu. Và người chưa từng học qua chưa chắc đã không biết gì. Chính vì sự vô cùng đặc biệt này mà nghệ thuật vẫn cuốn hút, vẫn say mê. Dù bạn là người hoạt động nghệ thuật hay người cảm hưởng nghệ thuật. Đôi khi một bức tranh đẹp chỉ vì nó đẹp. Hay một bài hát hay vì giai điệu thú vị và ca từ độc đáo. Nếu chỉ vì chúng không chứa một thông điệp truyền tải nào. Mà chúng ta không công nhận là tác phẩm nghệ thuật thì thật sự đáng tiếc, đúng không? Trường hợp khác, với những tác phẩm hội họa mang nội dung phản ánh hiện thực. Chúng ta phân tích về mặt nội dung thôi. Bỏ quên đi những phương thức biểu hiện như đường nét, phối màu, bố cục… Thì phải chăng chúng ta cũng đã bỏ sót giá trị thẩm mỹ hay kiến thức hội họa mà chúng mang lại? Tạm kết Vị nghệ thuật, hay vị nhân sinh là việc lựa chọn góc nhìn. Như trong hội họa, tùy vào phong cách, mục tiêu mà họa sĩ sẽ chọn cho mình kiến thức phù hợp. Các khóa học vẽ cũng từ những nhu cầu, mục đích học mà nội dung ngày càng phong phú, đa dạng. Phục vụ không riêng biệt một đối tượng nào. Với nghệ thuật nên là góc nhìn tổng thể và rộng mở. Digiart Academy - Cảm thụ nghệ thuật thông qua kỹ năng vẽ đồ họa THAM GIA HỌC TẠI ĐÂY! Xây dựng - Đô thị vị nhân sinh, cuốn sách của tác giả Jan Gehl trong đó giải thích rõ ràng các phương pháp và công cụ mà ông sử dụng để cấu hình lại các cảnh quan thành phố để phát triển thành các đô thị sống động, an toàn, bền vững và lành mạnh, thực sự vì người dân. Một thành phố chỉ tồn tại nếu cư dân của thành phố đó sử dụng các không gian công cộng liên tục và ngược lại những cư dân đó sẽ chỉ làm như vậy nếu họ cảm thấy thành phố sạch sẽ, an toàn và thú vị với họ. Gehl nhấn mạnh vào việc bắt đầu với yếu tố con người thay vì là giao thông khi kiến tạo hoặc tái tạo các khu vực đô thị có ý nghĩa nổi bật. Trong ngôn ngữ cuộc sống đời thường, không mấy khi người ta phân biệt rạch ròi hai từ nhân sinh và dân sinh, chúng thường được dùng tương đương nhau. Tuy nhiên, nếu lật mở từ điển cũng như tham khảo trên các tài liệu, chúng ta sẽ thấy một sự khác biệt nhất định. Nhân sinh là sự sống của con người trong đó nhân là người, sinh là sự sống. Nhân sinh thường được dùng trong cụm từ nhân sinh quan để chỉ quan niệm, cách nhìn nhận thành hệ thống về cuộc đời, cuộc sống con người. Dân sinh thì có nhiều nghĩa hơn Dân sinh có thể là sinh kế, sinh hoạt của nhân dân trong đó dân là nhân dân, sinh là sinh kế, có thể là sự sống của người dân trong đó dân là người dân, sinh là sự sống, và cũng có thể là đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung. Như vậy, vị nhân sinh và vị dân sinh đều có nghĩa chung là vì cuộc sống của con người, lấy cuộc sống con người làm tôn chỉ, làm mục đích để hình thành những ý tưởng và phát triển những hoạt động. Nhưng trong một chừng mực nào đó thì có lẽ vị nhân sinh mang tính khái quát cao hơn khi đề cập đến con người nói chung, thậm chí là nhân loại với những triết lý về cuộc đời, về ý nghĩa, và về mục đích sống. Chẳng hạn như chúng ta thường nhắc đến nghệ thuật vị nhân sinh khẳng định bản chất xã hội của nghệ thuật, chủ trương gắn nghệ thuật với đời sống xã hội, chống lại các khuynh hướng nghệ thuật thoát ly cuộc sống. Còn trong kiến trúc, khái niệm vị nhân sinh thường được dùng một cách lưỡng dụng, nghĩa là vừa có tính hợp lý tiện dụng của công năng khi kiến trúc đặt nhu cầu của người sử dụng lên hàng đầu và thỏa mãn tối đa những nhu cầu đó, vừa thể hiện quan điểm sáng tạo kiến trúc một cách thi vị, tràn đầy cảm xúc thông qua một nhân sinh quan nhất định về môi trường sống của con người. Trong khi đó vị dân sinh lại đề cập đến những khía cạnh đời thường nhất của cuộc sống người dân như sinh kế, hay sinh hoạt của họ. Nói cách khác, dân sinh thể hiện những gì rất thiết thực, không màu mè, liên quan đến những nhu cầu cơ bản nhất, thường là vật chất, của mỗi con người. Nhà cách mạng Phan Châu Trinh đã rất say mê với tư tưởng khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh lấy yếu tố dân làm gốc, trong đó hậu dân sinh nghĩa là làm cho đời sống của dân ngày càng no ấm, nền kinh tế quốc dân phát triển hậu là làm dày ra. Nói cách khác công cuộc khai dân trí và chấn dân khí chỉ có kết quả vững chắc khi biết làm cho đời sống của dân được đầy đủ, hùng hậu. Và kiến trúc vị dân sinh cũng là những gì thực dụng nhất nhằm giúp người dân có thể cải thiện cuộc sống của họ. Nói cách khác kiến trúc vị dân sinh đáp ứng các hoạt động sống thiết thực của người dân mà nhiều khi cũng chính là những nhu cầu sinh tồn thiết yếu nhưng không được quan tâm ghi nhận một cách chính thống hay chính danh. Từ câu chuyện của kiến trúc vị nhân/dân sinh, chúng ta phát triển thành câu chuyện của đô thị, bởi suy cho cùng, đô thị là tổng hòa của những kiến trúc. Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, trong một cách tiếp cận từ dưới lên, nghĩa là từ những không gian đời thường nhất, thực tế nhất của các thành phố, chúng ta có thể cảm nhận sự tiến triển tư duy của đời sống xã hội đô thị hình như vẫn chậm hơn một nhịp so với những thành tựu kinh tế. Quan điểm làm đô thị để hỗ trợ sinh kế người dân từ thời đất nước còn khó khăn vẫn tồn tại, mặc dù thu nhập bình quân đầu người dân đô thị giờ đây đã được cải thiện đáng kể. Những không gian công cộng như lề đường, vỉa hè thay vì là nơi để thúc đẩy người đi bộ, đi xe đạp thì lại là nơi buôn bán, trông giữ xe, cơi nới hàng quán... Để rồi mỗi khi có chiến dịch giành lại không gian để đường thông hè thoáng thì chính những người dân lại phản ứng quyết liệt và cho rằng vỉa hè là nơi đem lại nguồn kinh tế chính cho nhiều gia đình, nhiều mảnh đời. Hay một câu chuyện khác, người dân mở các quán cà phê dọc theo đường tàu để rồi trở thành một trào lưu thu hút khách đến chụp ảnh, vui chơi ngay trong giới hạn hành lang an toàn đường sắt, bất chấp an toàn tính mạng của mình. Và đến khi chính quyền có các biện pháp ngăn chặn nhằm tránh những tai nạn có thể xảy ra thì người dân lại có đơn xin được phép tồn tại để đảm bảo nguồn sinh kế. Vậy là khi sinh kế được mang ra và trở thành cái cớ thì những nỗ lực để có thể xây dựng những đô thị văn minh hơn phần nào đã trở nên vô nghĩa. Rõ ràng là trong các ví dụ trên, chúng ta đã có một đô thị vị dân sinh, nhưng chính yếu tố vị dân sinh đó lại làm cho đô thị vẫn nhếch nhác, vẫn mất an toàn, là những điều trái với nguyên tắc vị nhân sinh vì sinh kế của người này lại gây phiền toái, bất an cho những người khác. Trong chiều ngược lại, khi nhìn từ trên xuống, từ những chiến lược, chính sách vĩ mô, có lẽ là hệ thống đô thị Việt Nam vẫn chưa thực sự có những triết lý, những nhân sinh quan về phát triển và tăng trưởng. Hầu hết không gian các đô thị vẫn phát triển một cách tự nhiên, theo bản năng, thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu trước mắt thay vì tính toán cho một tương lai lâu dài. Với đường biên đô thị được mở rộng không ngừng nghỉ, các thành phố béo phì trở thành hình ảnh khuếch trương cho sự phát triển. Sự gia tăng quy mô lẫn sự tích lũy cư dân đôi lúc lại không đi kèm với sự nâng cao các giá trị an sinh xã hội. Tuy nhiên, chúng ta cũng vẫn có một điểm sáng hiếm hoi là Đà Nẵng khi lấy phương châm và quyết tâm trở thành một thành phố đáng sống để làm kim chỉ nam cho các cách thức phát triển không gian và triển khai các hoạt động đô thị. Từ năm 2000, Đà Nẵng đã ban hành chương trình Thành phố 5 không - không có hộ đói, không có người mù chữ, không có người lang thang xin ăn, không có tệ nạn ma tuý, không giết người cướp của. Năm 2005, Đà Nẵng lại tiếp tục với Thành phố 3 có - có nhà ở, có việc làm, có nếp sống văn hoas văn minh đô thị. Và gần đây nhất, đề án thực hiện Chương trình Thành phố 4 an - an ninh trật tự, an toàn giao thông, an toàn thực phẩm, an sinh xã hội - đã được thông qua năm 2016. Rõ ràng là với chuỗi hành động 5 không - 3 có - 4 an, thành phố này ít ra đã cho thấy tính vị nhân sinh khi lấy sự hạnh phúc và an cư của người dân làm trọng tâm với mong muốn mang đến những giá trị tốt đẹp cho cuộc sống của mỗi người dân bởi thành phố này có khát vọng chứ không phải tham vọng. Như vậy, vị nhân sinh và vị dân sinh là hai yếu tố tồn tại song song và cần phải được đảm bảo đồng thời trong sự phát triển các đô thị. Vị nhân sinh ảnh hưởng đến những định hướng mang tính vĩ mô, dẫn đường cho sự vận động và vận hành tổng thể để hướng đến những giá trị nhân văn đô thị, nền tảng cho những kế hoạch phát triển dài hạn của thành phố. Vị dân sinh lại cho thấy những mối quan tâm vi mô của đô thị đến cuộc sống của mỗi cư dân, mỗi phận đời nhằm giúp họ vượt qua những khó khăn vật chất và mưu sinh cuộc sống trước mắt để vươn lên những thang bậc giá trị cao hơn. Và chúng ta cũng có thể thấy khi đô thị trở nên vị nhân sinh hơn thì các yếu tố dân sinh sẽ được đảm bảo hơn, và ngược lại, khi đô thị trở nên vị dân sinh hơn thì dần dần tính nhân văn đô thị càng rõ nét hơn. TS Trần Minh Tùng Phó Trưởng Bộ môn Kiến trúc dân dụng, Khoa Kiến trúc - Quy hoạch, Trường ĐH Xây dựng 1. Giải thích2. Bàn luận “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” 3. Chứng minh “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” bằng những trải nghiệm khi đọc tác phẩm Nghị luận “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” Tố Hữu Mở bài Văn học nghệ thuật có vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. Mỗi tác phẩm văn học đều có một sinh mệnh riêng, một đời sống riêng. Tác phẩm đến từ đâu và hướng tới nơi nào, tất cả đều do người nghệ sĩ và bạn đọc quyết định. Bàn về điều này, nhà thơ Tố Hữu từng khẳng định “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” Tố Hữu Thân bài 1. Giải thích “Cuộc đời là nơi xuất phát của văn học” Nội dung của các tác phẩm phải phản ánh được hiện thực, khám phá những vấn đề của cuộc sống. “Cuộc đời cũng là nơi đi tới của văn học” Văn học tác động trở lại cuộc đời, làm thay đổi nhận thức và tình cảm của con người để cuộc sống chung tốt đẹp hơn. Nhà thơ Tố Hữu khẳng định Văn học vị nhân sinh, vì cuộc đời mà văn học được sinh ra và cũng vì cuộc đời, vì con người mà văn học tiếp tục sứ mệnh xây dựng những thành lũy vững chắc cho tâm hồn con người. Trong đó, vai trò của người nghệ sĩ khá quan trọng. 2. Bàn luận “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” Người sáng tác chiêm nghiệm cuộc sống, lựa chọn đề tài từ hiện thực góp nên trang viết của mình. Họ phản ánh đời sống bằng cái tâm của người nghệ sĩ chân chính, không tô hồng hay bôi đen hiện thực đó. Tuy nhiên, người sáng tác không bê nguyên thực tại vào trang viết của mình, qua lăng kính nghệ sĩ, hiện thực lung linh sinh động hơn, có ý nghĩa hơn. Tiếng nói của văn học nghệ thuật sẽ đồng hành cùng con người đi về phía tương lai. Bởi trong mỗi tác phẩm, người nghệ sĩ gửi vào đó những lời nhắn, những thông điệp sống, giúp con người nhận ra mình để sống tốt đẹp hơn. Cho nên nghệ sĩ còn mang thiên chức “kĩ sư tâm hồn”. Tuy nhiên, những bài học về lẽ sống gửi trong mỗi tác phẩm không đơn thuần là thuyết lí khô khan, nhà văn, nhà thơ nói bằng hình ảnh, bằng nhạc điệu, bằng các tình huống độc đáo. Và họ thắp lên trong lòng bạn đọc những ngọn lửa ấm, ngọn lửa hướng thiện. 3. Chứng minh “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” bằng những trải nghiệm khi đọc tác phẩm Từ việc cảm nhận các tác phẩm đã đọc, học sinh chỉ ra tính đúng đắn của vấn đề đang giải quyết. Cảm nhận của học sinh cần chân thành, tinh tế, sâu sắc. Khuyến khích những bài viết cho thấy những phát hiện độc đáo của nhà văn đã thực sự có sức tác động mạnh mẽ đến người làm bài. – Tắt đèn – Ngô Tất Tố – Lão Hạc – Nam Cao – Trong lòng mẹ – Nguyên Hồng – Cô bé bán diêm – Andecxen Kết bài Trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ, người nghệ sĩ phải có con mắt tinh, có trái tim giàu cảm xúc mói nhận ra những vẻ đẹp của con người hay của thiên nhiên, mới nghe được âm thanh của cuộc sống… để đưa lên trang viết của mình. Người nghệ sĩ cũng phải có khả năng sáng tạo đặc biệt, lao động ngôn từ không mệt mỏi để dệt nên tác phẩm có sức sống vượt thời gian. Chứng minh “Văn học là cuốn bách khoa toàn thư về cuộc sống” Chứng minh “Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng” Bài tham khảo Mở bài Văn học nghệ thuật có vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. Mỗi tác phẩm văn học đều có một sinh mệnh riêng, một đời sống riêng. Tác phẩm đến từ đâu và hướng tới nơi nào, tất cả đều do người nghệ sĩ và bạn đọc quyết định. Bàn về điều này, nhà thơ Tố Hữu từng khẳng định “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” Tố Hữu Thân bài “Cuộc đời là nơi xuất phát của văn học” Nội dung của các tác phẩm phản ánh được hiện thực, khám phá những vấn đề của cuộc sống. “Cuộc đời cũng là nơi đi tới của văn học” Văn học tác động trở lại cuộc đời, làm thay đổi nhận thức và tình cảm của con người để cuộc sống chung tốt đẹp hơn. Nhà thơ Tố Hữu khẳng định Văn học vị nhân sinh – vì cuộc đời mà văn học được sinh ra và cũng vì cuộc đời, vì con người mà văn học tiếp tục sứ mệnh xây dựng những thành lũy vững chắc cho tâm hồn con người. Trong đó, vai trò của người nghệ sĩ khá quan trọng. Cuộc đời đúng là nơi xuất phát của văn học. Nhà thơ, nhà phê bình văn học Nguyễn Đình Thi cũng đồng quan điểm với nhà thơ Tố Hữu khi cho rằng “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng mượn vật liệu ở thực tại”. Người sáng tác chiêm nghiệm cuộc sống, lựa chọn đề tài từ hiện thực góp nên trang viết của mình. Họ phản ánh đời sống bằng cái tâm của người nghệ sĩ chân chín không tô hồng hay bôi đen hiện thực đó. Tuy nhiên, người sáng tác không bê nguyên thực tại vào trang viết của mình, qua lăng kính nghệ sĩ, hiện thực trở nên lung linh sinh động hơn và có ý nghĩa hơn. Văn học là nơi in bóng của thời đại, nhà văn là thư kí trung thành của thời đại. Tác phẩm văn học, nghệ thuật, tự thân nó không thể xa rời hiện thực đời sống. Nhưng phản ánh hiện thực như thế nào, thì không phải là câu hỏi dễ trả lời. Không đơn giản chỉ là sự tả chân một cách cơ học, chưa nói rằng, tả chân đôi lúc cũng chưa hẳn là thấu đáo; và thực tiễn văn học, nghệ thuật cho thấy, thành tựu văn học, nghệ thuật phụ thuộc vào tài năng, quan niệm thẩm mỹ và sự thăng hoa cảm xúc của người nghệ sĩ. Mỗi nhà văn cũng là một thư kí trung thành của thời đại bới nếu không có hiện thực cuộc sống, mỗi nhà văn cũng không thể tự tưởng tượng ra những điều mới mẻ để viết. Kể cả chương viễn tưởng cũng là chiết xuất từ hiện thực những chất liệu cần thiết để hình thành nên. Không có tác phẩm nào mà không phản ánh hiện thực, cũng không có nhà văn nào có thể bước ra khỏi cuộc sống để viết. Đọc bài thơ Đồng chí của Chính Hữu, người đọc nhận ra ngay hoàn cảnh chiến đấu chống thực dân Pháp của quân và dân ta thời kì đầu thiếu thốn, trăm nghìn gian khó chưa thể giải quyết được, người lính còn chiến đấu trong tình trạng mất cân đối với kẻ thù. Đó là những ngày đầu khi ta chưa võ trang. Người đọc cũng nhận ra tinh thần vượt khó kiên cường, quyết chiến, quyết thắng kẻ thù, một lòng trung thành với đất nước của các chiến sĩ, dẫu gian nguy cũng không chịu lùi bước hay than vãn. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải ra đời năm 1980, khi đất nước vừa đi qua chiến tranh. Nhưng cuộc sống chung vẫn còn nhiều khó khăn chiến tranh lại nổ ra ở hai đầu biên giới phía Bắc và Tây Nam Tổ quốc, bữa cơm còn độn khoai, nhiều nơi còn loang lỗ hố bom … Hiện thực ấy đi vào trang thơ của Thanh Hải, ông viết Mùa xuân người cầm súng Lộc giắt đầy trên lưng Mùa xuân người ra đồng Lộc trải dài nương mạ Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao Ấn tượng nghệ thuật ở đoạn thơ này là cách dùng điệp ngữ “mùa xuân”, lộc”, “tất cả” khiến cho lời thơ nhịp nhàng, hình ảnh mùa xuân tràn đầy sức sòng hiện ra rõ nét. Hình ảnh hoán dụ “người cầm súng”, “người ra đồng” gợi lên mùa xuân đất nước, người người hối hả tay súng, tay cày; vừa xây dựng vừa bảo vệ biên cương Tổ quốc. Từ láy “hối hả”, “xôn xao” diễn tả không khí rộn ràng, khẩn trương, náo nức của cả nước. Nhà thơ viết những dòng thơ lúc đang nằm trên giường bệnh, tai không thể nghe được âm thanh mùa xuân đất nước, mắt không thể nhìn thấy người người ra trận, ra đồng. Nhưng tác giả vẫn cảm nhận được hiện thực cuộc sống và thể hiện trên trang viết của mình. Cuộc đời cũng là nơi đi tới của văn học. Tiếng nói của văn học nghệ thuật sẽ đồng hành cùng con người đi đến tương lai. Bởi trong mỗi tác phẩm, người nghệ sĩ gửi vào đó những lời nhắn, những thông điệp sống, giúp con người nhận ra mình để sống tốt đẹp hơn. Cho nên nghệ sĩ còn mang thiên chức “kĩ sư tâm hồn”. Tuy nhiên, những bài học về lẽ sống gửi trong mỗi tác phẩm không đơn thuần là thuyết lí khô khan; nhà văn, nhà thơ nói bằng hình ảnh, bằng nhạc điệu, bằng các tình huống độc đáo. Và họ thắp lên trong lòng bạn đọc những ngọn lửa ấm, ngọn lửa hướng thiện. Đến với bài thơ “Nói với con” của nhà thơ Y Phương, tấm lòng của người nghệ sĩ dân tộc Tày dành cho con, cho quê hương; đem tiếng thơ của mình góp vào đời sống một viên đá con làm nên thành lũy tâm hồn con người trong những năm 1980. Ở đoạn thơ thứ hai, người cha nói với con về phẩm chất của đồng bào mình và cũng là lời trao gửi niềm tin của một thế hệ dành cho một thế hệ. “Người đồng mình thương lắm con ơi Cao đo nỗi buồn Xa nuôi chí lớn Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn Sống trên đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc” Y Phương đã không hề rời xa hiện thực đời sống, cách nghĩ, cách làm của “người đồng mình”. Tất cả đã được phản ánh chân thực, sinh động trong những vần thơ tha thiết. Đồng thời tiếng thơ quay trở lại bồi dưỡng tâm hồn con người, làm đẹp cho quê hướng, đất nước. Nghĩa là nó trở lại với nguồn cội đã sản sinh ra nó. Nghĩa là văn học đã đi tới với hiện thực cuộc sống sinh động và tái sinh một cuộc sống mới. Qua phần phân tích trên, ta thấy rõ, “cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi tới của văn học”. Trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ, người nghệ sĩ phải có con mắt tinh tường, có trái tim giàu cảm xúc mới nhận ra những vẻ đẹp của con người, của thiên nhiên, mới nghe được, cảm được những âm thanh sống động và những vang động âm thầm của cuộc sống để đưa lên trang viết mình. Người nghệ sĩ cũng phải có khả năng sáng tạo đặc biệt, lao động không mệt mỏi để dệt nên tác phẩm có sức sống vượt thời gian. Kết bài Văn học không đơn thuần là phản ánh hiện thực mà là sự nghiền ngẫm về hiện thực. Văn học thoát ra từ hiện thực cuộc sống để sau đó trở lại phục vụ cuộc sống. Nhận định của nhà thơ Tố Hữu có ý nghĩa đề cao vai trò văn học trong sống con người đồng thời nhắc nhở người sáng tác và bạn đọc cần có sự đồng điệu để tác phẩm văn học tiếp thêm sức mạnh cho cuộc đời. Chứng minh Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ

văn học vị nhân sinh