vua cha bat hai dong dinh la ai

1 khi thấy mình đã gần đất xa trời, vua đa-vít truyền dạy sa-lô-môn con mình rằng:2 "cha sắp bước vào đoạn đường mà mọi người trên đời phải đi qua; con hãy can đảm lên và sống cho xứng bậc nam nhi.3 hãy tuân giữ các huấn lệnh của đức chúa, thiên chúa của con, mà đi theo đường lối của người, là giữ các giới răn, mệnh lệnh, luật pháp, và chỉ thị … Bật mí dàn diễn viên đình đám hoành tráng chuẩn bị đổ bộ Đấu Trí. Ngọc Quỳnh 10:12 - 31/08/2022. Trong những diễn biến tiếp theo, Đấu Trí sẽ bắt đầu khai thác sâu hơn những dự án bất động sản đáng ngờ ở tỉnh Đông Bình. Tôi công nhận đây là tỉnh thành bất ổn Con người còn sống là còn nhiều chuyện để làm, để nói, và suy nghĩ. Ngay cả sau khi chết, sự sống vẫn tiếp tục dưới nhiều hình thức khác. Dù tu chứng đến thành Phật hay Bồ tát thì các ngài vẫn có chuyện để làm, đó là tiếp tục ra vào sinh tử độ sinh, và công việc đó không bao giờ chấm dứt. Mạng Ngoài trận đánh Nguyễn Siêu, Nguyễn Bặc đóng góp nhiều công lao trong việc đánh dẹp các sứ quân, thống nhất toàn quốc dưới tay vua Đinh. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, tức là Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Bặc được phong làm Định quốc công, Đinh Điền được phong làm ngoại giáp. 481. Vua cha Bát Hải Động Đình. 14/03/2020 ~ Lược Sử Tộc Việt. Là vị Vua đứng đầu Thủy phủ, Ngài còn được gọi là Vua Cha Bát Hải Động đình, hành dinh của Ngài ở Động Đình Hồ, thuộc vùng đất Tổ Động Đình, ngày nay là miền Nam Trung Quốc. Không gian của truyền materi pai kelas 4 semester 2 kurikulum 2013. vua cha của thủy phủ Đồng Định là vị vua đứng đầu thủy quyền, ông còn được gọi là cha đẻ của lưu vực biển Đồng Định, trụ sở của ông ở hồ Đồng Định, một vùng đất để dọc theo bờ biển phía đông nước ta, không phải đầm Vân Mong còn gọi là Đồng Định Hộ ở Trung Quốc. Ông là cha của thánh cung điện, thánh mẫu của dây chuyền, và cha vợ của kinh đường vương, tổ tiên của bach viet. Bạn đang xem Vua cha bát hải động đình là ai câu chuyện Ngày xưa, vào thời vua Hùng, có một cặp vợ chồng tên là phò tá, quê ở Thụy Anh, Thái Bình, gặp một cô bé bên sông. họ đã nhận cô gái làm con gái của họ. Họ gọi cô ấy là Mrs. Năm 18 tuổi, trong một lần ra sông tắm, bỗng nước chảy dữ dội, một con hoàng long xuất hiện ôm chặt lấy nàng. Một lúc sau, sóng yên biển lặng, hoàng long biến mất, người ta tìm thấy cô nương nằm trên bờ sông. Một thời gian sau, cô phát hiện mình có thai và chuyển về xứ hoa đào. Xem thêm 13 người lùn nhất thế giới mọi thời đại Đúng 13 tháng sau, cô ấy sinh ra một tia hào quang. người phụ nữ sợ hãi nên đã ném chiếc túi xuống sông vĩnh cửu và nó đã được một người giữ vó của họ bên sông vớt lên. Khi mở gói, ông ngạc nhiên khi thấy ba con rồng, đầu rồng và mình rắn, là con trai của Lạc Long Quân, từ trong gói bước ra. người con cả là thái tử giao long vượt sông vào bờ trốn ở giếng nước gần đó, còn hai người thì bơi theo dòng nước rồi trôi dạt đi nơi khác. Đêm ấy, người dân hoa Đào Tràng nghe tiếng lớn rằng “Ta là quân rồng, khi có giặc sẽ giúp vua hùng mạnh dẹp giặc”. và sau đó, nhân dân trong vùng đã lập miếu thờ tại nơi có giếng, từ đó hương tích “phong thủy hoa mộc” rất hiệu nghiệm, chính là giếng thánh của ngôi chùa đồng bằng ngày nay. sau này, khi kẻ thù xâm lược nước ta. vị vua hùng mạnh dựng bàn thờ cầu trời cho thần linh phán bảo về ngôi đền trên bình nguyên, nếu triệu tập dị nhân thì dị nhân sẽ đứng lên giúp đánh bại kẻ thù. Vị vua anh hùng cũng làm như vậy. Đúng vậy, trong giếng thánh của ngôi chùa châu thổ ngày nay, vua rắn xuất hiện và biến thành một người đàn ông vạm vỡ và đẹp trai tên là vinh công, nói rằng ông nhận được lệnh của nhà vua và triệu tập các tướng lĩnh trong 10 ngày. dàn quân ở tất cả 8 cửa biển của đất nước, hứa hẹn 3 ngày nữa sẽ tiêu diệt địch. Theo dân gian, 10 vị tướng sau này được coi là con của vua cha. một số vị tướng này vẫn xuống trần gian để giúp đỡ nhân dân. các vị tướng này hầu hết là các vị thánh trong tứ phủ như quan hoàng bơ, quan hoàng bảy, quan hoàng mười…. Đọc thêm Đồ hoạ vector là gì? Ảnh vector, hay thiết kế đồ hoạ vector là gì? Đúng như lời hứa, sau 3 ngày ra quân đánh giặc, Vinh Công cùng các tướng sĩ chiến thắng trở về, được vua phong làm “Đại thần khai quốc công thần”. Công lao của Vinh trong trận chiến rất lớn khiến nhà vua kính trọng và mong ông ở lại kinh đô. Vinh công cáo lui về quê nuôi mẹ già, khai khẩn bờ biển, chiêu dân lập ấp, dạy dân làm nghề đan lát, trồng dâu, nuôi tằm. Ngày 22 tháng 8 âm lịch, Vinh Công mời cố nhân về tư dinh, từ biệt rồi vâng lệnh trở về tâu với vua cha là Lạc Long Quân. Vua Hùng nghe tin rất thương xót, liền cấp tiền lo tang lễ, sửa cung điện thành miếu thờ ông, nay là miếu của đồng bằng. Ngoài ra, nhân dân ngày nay còn lưu truyền một truyền thuyết rằng “Tam lần linh ứng” trong danh hiệu của Vua Bát Hải là về 3 lần ông hiển linh, trong đó có một lần là vĩnh hằng. công tước của các vị vua như trên. Và lần thứ hai, ông được hóa thân vào hình tượng vua Ngô Quyền đánh quân nam Hán ở sông Bạch Đằng. lần thứ ba, anh hóa thân thành hung thủ vạn tuế, 3 lần đánh bại quan nguyên – mong. nơi thờ phụng Văn công chuyển ngày là ngày 22 tháng 8, nên dân gian truyền nhau câu “Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ” để nói về lễ hội tháng tám ở đền đồng bằng thờ cha. cung điện nước được đặt theo tên của vị vua của các vị vua. Ngoài ra, trong khu du lịch tâm linh có mật độ dày đặc còn có đền thờ vua cha bát quái. ở Phủ Vân cát – phủ dày còn có một ngôi miếu nhỏ thờ vua cha Bát Quái…. Các đền thờ khác của Vua Bát Hải Động Đình cũng được tôn kính. Đọc thêm TOP 6 địa điểm vui chơi giải trí quận 12 nên ghé thăm 2022 tham chiếu sơ lược lịch sử dân tộc Việt Nam, vị vua và cha đẻ của Bát hải đồng dinh dong -dinh / tam cô tam, ngôi đền của người bình nguyên và truyền thuyết về vua ba hải đồ thờ cúng tâm linh sơn đông tinh thần dai viet Để biết Vua Cha Bát Hải Động Đình là ai và được thờ ở đâu các bạn cần phải đọc hết từng câu từng chữ mà Đồ Thờ Cúng Tâm Linh chia sẻ dưới đây. Chúng ta có thể tham khảo tóm tắt Thần tích của đền Đồng Bằng như sau Đền Đồng Bằng Trước đây, vào thời Vua Hùng, có hai vợ chồng họ Phạm và họ Trần ở Thụy Anh, Thái Bình có bắt gặp một cô gái nhỏ bên sông. Họ đã nhận cô bé về làm con. Họ đặt tên cô là Quý Nương. Năm Quý Nương 18 tuổi, Cô ra sông tắm có con Hoàng Loang quấn chặt lấy người cô. Quý Nương có thai và sinh ra 1 cái bọc. Từ bọc sinh ra 3 con rắn. Một con chui vào giếng nước đó là giếng thiêng của Đền Đồng Bằng ngày nay. Vua Cha Bát Hải Động Đình là ai? Khi giặc Thục sang xâm chiếm nước ta. Vua Hùng lập đàn cầu trời được thần linh mách bảo về nơi Đền Đồng Bằng mà triệu thì sẽ có dị nhân đứng lên giúp đánh tan quân thù. Vua Hùng làm theo. Đúng như vậy, tại giếng thiêng đền Đồng Bằng ngày nay, Hoàng Xà lền hiện ra và biến thành một tràng trai lực lưỡng, tuấn tú hơn người. Ngài nhận chỉ dụ của Vua Hùng, sau đó triệu 2 em hai Hoàng Long trong cái bọc nàng Quý Nương đã sinh ra, mười tướng cùng các binh sĩ. Sau mười ngày triệu tập quân sĩ, Ngài dã xuất quân và đánh tan quân Thục trên cả 8 cửa biển chỉ trong vòng có 3 ngày. Ngài có tên là Vĩnh Công, và sau này được Vua Lý Thánh Tông phong là Vĩnh Công Đại Vương Bát Hải Động Đình. Vì thế, dân gian gọi ngài là Vua Cha Bát Hải Động Đình. Đền thờ Vua Cha Bát Hải Động Đình – vị vua của biển Đông Như vậy, theo truyền thuyết này thì sự tích về Vua Cha Bát Hải Động Đình có vẻ hư cấu và thần thánh hóa. Tuy nhiên, vẫn có thể nói rằng Vua Cha bát Hải Động Đình và các tướng lĩnh cua Ngài là các nhân vật có thật trong cuộc chiến đấu chống quân Thục của dân tộc Việt Nam trên 2000 năm trước. Chỉ tiếc rằng cuộc chiến đã quá lâu chúng ta không còn sử sách nào ghi lại về các chiến tích của các nhân vật lịch sử này. Vì thế, chiến tích của các nhân vật này đã được thần thánh hóa cũng là điều hiển nhiên mà thôi. Cũng theo lưu truyền trong dân gian thì 10 tướng của Vua Cha bát Hải sau này được coi là con của Đức Vua Cha Bát Hải. Một số các tướng lĩnh này tiếp tục được giáng trần để giúp đời. Các tướng này hầu hết là các Thánh Hoàng trong Tứ Phủ Quan Hoàng như Quan Hoàng Bơ, Quan Hoàng Bảy, Quan Hoàng Mười…. Vua Cha Bát Hải Động Đình được thờ ở đâu? Vua Cha Bát Động Đình được thờ chính tại Đền Đồng Bằng – Khu Du lịch tâm linh Đền Đồng Bằng. Ngoài ra, tại khu Quần thể du lịch Tâm Linh Phủ Dầy cũng có đền Vua Cha Bát Hải. Tại Phủ Vân Cát – Phủ Dầy cũng có một đền nhỏ thờ Vua Cha Bát Hải…. Một số ngôi đền khác Vua Cha Bát Hải Động Đình cũng được phối thờ. Đăng nhập Là vị Vua đứng đầu Thủy phủ, Ngài còn được gọi là Vua Cha Bát Hải Động đình, hành dinh của Ngài ở Động Đình Hồ, thuộc vùng đất Tổ Động Đình, ngày nay là miền Nam Trung Quốc. Không gian của truyền thuyết khi người Việt trở về Việt Nam, đã được “co hẹp” vào không gian miền Bắc Việt Nam, nên Động Đình hồ được cho rằng là một vùng đất ở gần biển Đông, nhưng ở vùng Động Đình mới chính là địa điểm gốc diễn ra truyền thuyết họ Hồng Bàng cũng như truyền thuyết về Vua cha Bát Hải Động Đình. Vua cha Bát Hải Động Đình là cha của Thủy phủ Thánh mẫu Xích Lân Long nữ. Ngài chính là Nhạc phụ của Kinh Dương Vương Kinh Xuyên, thủy tổ của Bách Việt. Ngài có một giáng sinh vào thời Hùng Duệ Vương – Hùng Vương thứ 18 phù dân cứu nước mà dấu tích mà chứng tích Ngài còn lưu lại tại đền Đồng Bằng An Lễ – Quỳnh Phụ – Thái Bình. Hùng Duệ Vương đã lớn tuổi, mà không sinh được con trai để nối ngôi, có 2 con gái đều đã đi lấy chồng, nguy cơ mất hết cơ đồ Hồng Bàng đang đến gần, các nước láng giếng lăm le xâm chiếm nước ta. Trời cao thấy vậy, mở đường hiếu sinh cho Công chúa tên là Ngọc nữ giáng hạ trần gian tại Hoa Đào Trang, để Ngài mượn cửa ứng cứu dân Việt. Ngày đó, có hai vợ chồng ông Phạm Túc và Trần Thị người Trang An Cố Thụy Anh – Thái Bình lớn tuổi mà không con, một hôm nhân đi đánh cá đến đất An Lễ tình cờ gặp được cô gái nhỏ, ông bà đón về nuôi tại An Cố, đặt tên Quý nương. Một lần Quý nương ra sông tắm, tự nhiên có một con Hoàng long quấn chặt lấy mình, về bà thụ thai. Lúc đó cha mẹ cũng đã mất, nàng Quý về quê cũ Hoa Đào Trang sinh sống. Nàng có thai 13 tháng mới sinh, khi sinh thì lại sinh ra cái bọc, sợ hãi Quý nương vứt bọc đó ra sông Vĩnh. Đêm đó, có một người cất vó tên Nguyễn Minh thấy bọc mang lên, ông rạch bọc ra, thấy bên trong có 3 con Hoàng long sáng chói, một con Chính là đức Vua cha Bát Hải chui vào náu thân trong giếng nước chính là giếng trong hậu cung đền Đồng Bằng, một con chui vào Thanh Do Trang, con nhỏ nhất về An Cố Trang. Thời gian sau đó, quân phương Bắc tập hợp binh lực chuẩn bị ý đồ thôn tính Văn Lang. Biết được điều đó, nhưng do tuổi già sức yếu, Hùng Duệ Vương không biết làm sao, bèn lập đàn cúng tế, Thanh y Tiên ông trên trời mới giáng xuống phán rằng về Đào Hoa Trang mà tìm nhân tài. Sứ giả về Đào Hoa Trang tìm, dân làng đem chuyện Hoàng Long ra kể, Sứ giả bèn tới bên giếng kia để tuyên truyền sắc chỉ, tức thì Hoàng long xuất hiện biến hóa ra chàng trai lực lưỡng. Người báo với Sứ giả sẽ truyền thêm 2 em, tập hợp mười tướng và chiêu mộ binh sĩ trong 10 ngày rồi sẽ xuất quân, đảm bảo 3 ngày giặc tan. Ngài bày binh bố trận tinh tường, khéo dùng quân sĩ, lại được các Thiên binh thần tướng ủng hộ, đúng 3 ngày sau giặc dữ tan tành, bình trị thiên hạ. Hùng Duệ Vương triệu Ngài về kinh đô phong là “Vĩnh Công Nhạc phủ Thượng đẳng thần” ban thưởng 10 hốt vàng và có ý mong Ngài ở lại kinh đô. Vĩnh Công cáo từ về quê nuôi mẹ già, khai khẩn duyên hải, chiêu dân lập ấp, dạy dân nghề nông tang, trồng dâu nuôi tằm. Thấm thoát thoi đưa, môt hôm Ngài gọi hương lão trong trang tới căn dặn rằng “Ta vốn là Thủy Quốc Thần tiên, nay phải về nơi chốn xưa gốc cũ, nếu nhớ đến ta, nơi ta ở đây là đền, ngày ta đi là ngày giỗ …” Ai ai có mặt đều bùi ngùi, nức nở. Bỗng đâu trời đất tối sầm, sấm chớp dữ dội, mưa như đổ nước, được một thoáng thì tạnh hẳn, mọi người chỉ còn thấy khăn áo của Vĩnh công, đó là ngày 22 tháng 8 năm Bính Dần. Dân dâng biểu về cung, Hùng Duệ Vương đau xót vô hạn, lại truyền ban phong mỹ tự “Trấn Tây An tam kì linh ứng Đại vương”. Các đời vua chúa sau này đều có sắc phong Ngài. Cũng theo lưu tryền trong dân gian thì 10 tướng của Vua Cha bát Hải sau này được coi là con của Đức Vua Cha Bát Hải. Một số các tướng lĩnh này tiếp tục được giáng trần để giúp đời. Các tướng này hầu hết là các Thánh Hoàng trong Tứ Phủ Quan Hoàng như Quan Hoàng Bơ, Quan Hoàng Bẩy, Quan Hoàng Mười…. Vua Cha Bát Hải Động Đình được thờ ở đâu? Vua Cha Bát Động Đình được thờ chính tại Đền Đồng Bằng – Khu Du lịch tâm linh Đền Đồng Bằng. Ngoài ra, tại khu Quần thể du lịch Tâm Linh Phủ Dầy cũng có đền Vua Cha Bát Hải. Tại Phủ Vân Cát – Phủ Dầy cũng có một đền nhỏ thờ Vua Cha Bát Hải….Một số ngôi đền khác Vua Cha Bát Hải Động Đình cũng được phối thờ. Chuyến đi thăm đền thờ Vua Cha Bát Hải Động Đình Từ Hà Nội thân thương chúng tôi đặt chân đến Quảng Châu trung tâm thương mại sầm uất bậc nhất tỉnh Quảng Đông. Từ Quảng Châu chúng tôi đi tầu điện cao tốc tới Trường Sa sau đó chuyển tàu đi Nhạc Dương như bản đồ đường đi đã được định ra trước. Đua thuyền rồng một trong những hình ảnh mà chúng tôi được nhìn thấy khi đến Yue yang Chúng tôi đến Nhạc Dương đã là 20h tối sau khi di chuyển hơn 6 tiếng đồng hồ mệt lả vì đói trên tàu cao tốc từ Quảng Châu với vận tốc cực đại 315km/h. Việc đầu tiên là tìm và thuê chỗ tá túc đã, tôi với vốn tiếng Trung tay chân đỡ mồm miệng sau một hồi với anh tài xế đã tìm được chỗ chú chân như ý. Ăn tối rồi tính tiếp – món ăn gì bây giờ nhỉ khi các bạn tôi đều là người không quen khẩu vị món lạ Lẩu cá là quyết định sau một hồi thực đơn bằng mắt. Bàn chúng tôi được may mắn ngồi vào chiếc bàn duy nhất có in hình rồng chầu kiến trúc đậm nét Nhạc Dương – Long Vương sau quãng đường hơn 2000 km nên chúng tôi ăn qua quít rồi đi nghỉ để mai tiếp tục hành trình. Sáng ngày thứ hai của chuyến đi tôi tỉnh giấc khi ánh sáng ngày mới vén lên qua khung cửa sổ – úi chà một biển hồ nhưng không hẳn là thế một bức tường thành cổ với kiến trúc phong kiến độc đáo. Đây là đâu nhỉ vì là lần đầu đến nên tôi băn khoăn tự hỏi mình, mà biết hỏi ai bây giờ khi mà lục nát cả đầu tôi với vốn từ vựng ít ỏi cũng không thể diễn đạt với người bản xứ đi tìm đền thờ Vua Cha Bát Hải. Nhưng bất ngờ đã đến lần thứ hai trong chuyến đi tôi gặp may mắn, mà không phải thế chứ vận may sao lại nhiều như vậy hay là có sự dẫn đường chỉ lối của thế giới siêu nhiên chiều hôm sau tôi mới biết khách sạn chúng tôi nằm ở đối diện với Nhạc Dương Lầu và ở chỗ cửa sổ đó có thể nhìn bao quát toàn cảnh Nhạc Dương và Hồ Động Đình Một buổi sáng bên góc Lầu Nhạc Dương Thời tiết Hà Nội và Quảng Châu đầu hạ với nhiệt độ trung bình 30 độ C, chúng tôi hoan hỉ với không khí ấm nóng chưa được bao lâu thì khi đặt chân đến Nhạc Dương nhiệt độ hạ xuống 13 độ và hôm sau xuống 9 độ. Chúng tôi mặc hết những gì có thể mang lên mình được nhưng cũng không xua đi cái lạnh đột ngột mà mùa đông chúng tôi vẫn thường gặp. Cuối cùng chúng tôi may mắn tìm thấy cửa hàng bán đồ lao động tự chọn lấy 4 chiếc áo bông màu xanh bộ đội. Việc đầu tiên chúng tôi tìm đường đến đền thờ Vua Cha ở trên Đảo Quân Sơn Junshan, 君山. Có hai cách đi ra đảo đi tàu thủy và đi đường bộ. Gió to và sóng ghập ghềnh nên chúng tôi đi taxi qua cây cầu mới xây ra đảo. Đảo Quân Sơn nguyên gốc gọi là núi Động Đình hay Tương Sơn Xiangshan. Đảo cách thị trấn Lạc Dương bên bờ khoàng 13 km, chiều rộng 1 km, có 72 đỉnh núi, 36 đình quán và 48 đền. Phong cảnh ở đây đi cùng với hồ thật thần tiên như chốn bồng lai tiên cảnh, đã nổi danh hàng ngàn năm nay. Tương truyền rằng ngày xưa có tiên xuất hiện ở đây. Cảnh sắc thay đổi theo bốn mùa. Về mùa xuân hoa cỏ muôn mầu muôn sắc. Mùa hạ, trời quang mây tạnh là lùc thấy rõ toàn cảnh hồ. Mùa thu khói sương huyền ảo như chốn thiên thai. Đêm đêm văng vẳng vọng lại tiếng hát câu hò của người dân chài trong thinh lặng. Mùa đông là lúc những loài di điểu trở về… Đền thờ Vua cha nằm trong khu danh lam bảo tồn, ngoài cửa có một bài thơ của thi tiên Lý Bạch được khắc lên bức tường đá ở đây Cổng vào khu Đảo Quân Sơn Nơi Thờ Long Vương Thường ở những chốn tâm linh như nơi đây rất khó có thể chụp ảnh phía bên trong. Kinh nghiệm từ những lần đi trước tôi cất máy vào balo thành tâm thắp hương, công đức cùng đoàn, đứng trật tự ngắm nhìn kiến trúc. Đợi thời cơ vắng khách ra cầu xin với Pháp sư, các vị thủ đền xin chụp ảnh làm tư liệu. May mắn tôi cũng ghi lại được kiến trúc bên trong đền. Ảnh Long Vương ngày gặp lại Con Gái Mong muốn nhất là tôi tự chụp được tượng thờ Long Vương đó cũng là tâm đắc cả chuyến đi này. Vua cha Bát hải Động đình Hưng tế Long cung Tượng Thích Ca Mâu Ni Phật cũng được thờ ở đây Quan Vân Trường Thần Tài. Hộ Pháp Thiện Thần Thiên Long Bát Bộ ở hai bên Năm trăm vị La Hán được thờ bên lối đi ra Hậu Cung Chúng tôi tiếp tục sang thăm quan ngôi đền kế tiếp. Lần này kinh nghiêm vào đền đã được cập nhập nên chúng tôi có vẻ đi dễ dàng hơn. Đền Tưởng Niệm Tương Phi ngày xưa gọi là Đền Tương Sơn. Đền được xây cất đầu tiên vào thời Chiến Quốc để thờ vị thần ở Quân Sơn và sông Tương. Theo truyền thuyết kể lại thì vua Thuấn Shun,舜 đi tuần thú và bị bệnh chết ở đây, rồi hai nàng ái phi là Nga Hoàng- 娥皇và Nữ Anh-女英 đi tìm và cũng chết nơi đây và được chôn cất nơi này. Sau nầy Khuất Nguyên- 屈原 làm thơ gọi là Tương Quân Xiangjun 湘君 và Tương Phu Nhân- Xiang Furen, 湘夫人. Tương Quân lại được cho là “thần sông” của Sông Tương, Tương Phi – 湘妃 là chỉ chung hai nàng ái phi của Vua Thuấn vì đi tìm chồng, đến ngày hẹn “hội ngộ” tại đây mà không gặp rồi mòn mỏi chờ ngã bệnh mà chết theo chồng. Vì vậy nên từ đời nhà Đường đền được đổi tên là Đền Tưởng Niệm Tương Phi. Đền được trùng tu lại vào đời vua Jia Qing triều nhà Thanh. nguồn Ảnh chụp gian giữa của đền Tương Phi Tượng hai nàng ái phi là Nga Hoàng- 娥皇và Nữ Anh-女英 Ra khỏi đền thờ hai nàng ái phi, chúng tôi đi qua rừng trồng tre rất có quy hoạch. Tre mọc ở đây rất lạ trên thân có một đốm đặc biệt. Loại tre này tôi chỉ biết có nguồn gốc ở đây. Tương truyền rằng sau khi nghe vua Thuấn chết hai bà vương phi ôm thân tre khóc thương thảm thiết. Nước mắt của hai bà nhỏ xuống thân tre biến thành đốm hình giọt nước mắt. Vì thế tre này còn được gọi là Tương Phi trúc hay Tương trúc. Tôi đứng sững sờ trước vườn trúc lòng đầy trắc ẩn xem ra có khá nhiều điều tôi còn chưa được biết. Hồ Ái Ân Đền Nguyệt Lão nằm bên hồ ái ân. Phối thất chi tế, vạn phúc chi nguyên Việc hôn nhân là nguồn gốc của muôn hạnh phúc Theo Điển tích xưa thì Tơ hồng Nguyệt Lão là vị thần cai quản về chuyện tình duyên hôn nhân nam nữ. Theo sách U quái lục có ghi lại một sự tích sau “Đời đường 618-907, Điền Vi Cố là khách trọ ở Tống Thành đi kén vợ. Một đêm nọ gặp một ông lão vai mang một cái túi to ngồi hướng về phía mặt trăng xem sách. Vi cố liền đến hỏi sách gì? Ông lão đáp Đó là quyển sổ biên tên tuổi từng cặp vợ chồng. Vi Cố lại hỏi thế cái túi to kia đựng vật gì. Ông lão đáp Đó là túi đựng dây tơ hồng dùng để buộc chân hai người có duyên với nhau. Thấy thế Vi Cố liền hỏi. Vậy ông có biết tôi lấy con gái nhà ai không? Ông lão bèn xem sổ một lúc rồi nói Vợ anh là con gái họ Vương mới lên 3 tuổi và Vi Cố thấy hình ảnh cố bé do một người phụ nữ chột một mắt ãm đang đi giữa chợ. Ông lão lại chỉ đứa bé và bảo nó chính vợ của anh. Thấy vậy Vi Cố nghĩ rằng minh là người gia thế như thế này mà số lại phải lấy một đứa bé gái con nhà bình dân nghèo khó thì giận quá liền bảo đầy tớ hôm sau tìm đứa bé đó giết đi. Người đầy tớ hôm sau ra chợ tìm thấy đứa bé như được Vi Cố tả do một người * Thái Mỹ Thần Chủ * Danh Cần Mẫu Thương Thần Chủ phụ nữ chột mắt đang bế đi giữa chợ liền lẻn đến đâm đứa bé một nhát vào giữa mặt rồi bỏ trốn. Mười bốn năm sau quan Thái Sử Trương châu là Vương Thái gả con gái cho Vi Cố. Cô tiểu thư xinh đẹp, giữa ông mày có đính trang điểmmột bông hoa vàng trông càng duyên dáng. Trong đêm tân hôn Vi Cố chỉ vào bông hoa khen và hỏi vợ sao lại đính bông hoa vào chỗ đó, cô dâu họ Vương mới bảo Thủa còn bé, một bà vú nuôi họ bế vào chợ bị một đứa cuồng tặc lẻn đến đâm một nhát may số thiếp mệnh lớn nên không chết nhưng có để lại một vết sẹo đó. Vi Cố giật mình hỏiCó phải bà vú đó họ Trần bị chột một mắt không? Người vợ ngạc nhiên xác nhận Đúng thế! Vi Cố lúc ấy mới vỡ lẽ về nhân duyên tiền định liền kể lại toàn bộ sự việc trước đó cho người vợ nghe”. Hôn nhân Theo Thuyết văn và Lễ ký thì “Hôn” có nghĩa là buổi chiều, khi cưới vợ người ta thường rước dâu vào buổi chiều nên gọi là Hôn. Còn “Nhân” là người chồng tức là chú rể, người vợ theo lễ cưới mà về nhà chồng để ở thì gọi là “Nhân”. Vì thế hai từ Hôn Nhân được ghép chung với nhau để diễn tả sự kết hợp chung sống của đôi trai gái, mà vị thần Hôn Nhân chính là Tơ Hồng Nguyệt Lão Tượng thờ Nguyệt lão Ổ Khóa Tình Yêu nằm khuôn viên đền Nguyệt Lão Giếng dãi rồng Giếng Liễu Nghị nguyên gốc gọi là giếng Cam vì gần đó có cây cam được xây cất đầu tiên vào thời nhà Tùy. Truyền thuyết kể rằng một sĩ tử ở Hồ Nam tên là Liu Mingying trên đường về thủ đô đi thi gặp nàng con gái Long Vương. Nàng bị một người giầu có tên là Jin Baiwan hành hạ bắt đi chăn cừu. Liu giúp nàng. Nàng chỉ cho Liêu dùng giếng Cây Cam xuống gặp Long Vương và đưa thư của nàng cho Long Vương. Long Vương cứu con gái và nhận chết chìm Jin Baiwan. Về sau Liu lấy con gái Long Vương. Câu chuyện về sau được Li Zhaowei viết thành truyền thuyết và phổ biến rộng dãi trong dân gian, trở thành một trong sáu câu chuyện dân gian nổi tiếng của Trung Hoa. Tới thời nhà Tống, giếng được đổi tên là Giếng Liễu Nghị. Ngày nay được xem là một di sản văn hóa. nguồn internet Giếng xuống gặp Long Vương Tạm biệt Đảo Quân Sơn chúng tôi lên xe buýt đi về trung tâm thánh phố nghỉ lấy sức cho chuyến đi tiếp theo. hienphs Bản gốc Vua Cha Đức Hải là gì? Sự tích đền Vua Cha Bát Hải được truyền thuyết kể lại thế nào? Ý nghĩa và văn khấn Vua Cha Bát Hải thế nào là đúng chuẩn tâm linh? Nếu đây là lần đầu tiên quý gia chủ tham gia lễ hội này thì chắc chắn ít nhiều cũng có những thắc mắc trên đúng không nào. Thật ra, câu trả lời có thật sự khó như bạn nghĩ. Hãy cùng đọc và tham khảo qua bài viết dưới đây. Daythangthoinoi chuyên dịch vụ mâm cúng trọn gói theo yêu cầu tại TPHCM và các khu vực lân cận. Vua cha Bát Hải là ai? Vua Cha Đức Hải là ai? Cho đến ngày nay có rất nhiều tài liệu nghiên cứu và nói về sự tích Vua Bát Hải. Mỗi tài liệu điều có một truyền thuyết riêng nói về Ông. Tuy nhiên, chung quy lại thì vẫn có chút hư cấu và thần thánh hóa vị vua này. Khi giặc Thục sang xâm lược nước ta, Vua Hùng lập đàn cầu trời được thần linh mách bảo về nơi Đền Đồng mà triệu thì sẽ có dị nhân đứng lên giúp đánh tan quân thù. Vua Hùng cũng làm theo và đúng như lời mách bảo. Hoàng Xà liền hiện ra và biến thành một chàng trai lực lưỡng, tuấn tú hơn người. Thanh niên này nhận chỉ dụ của Vua Hùng, sao đó triệu 2 em là hai Hoàng Long, mười tướng cùng các binh sĩ. Sau mười ngày triệu tập binh sĩ, ngài đã xuất quân và đánh tan quân Thục trên cả 8 cửa biển chỉ trong thời gian 3 ngày. Ngàu có tên là Vĩnh Công và sau này được Vua Lý Thánh Tông phong là Vĩnh Công Đại Vương Bát Hải Động Đình. Về sau, dân gian gọi ngài là Vua Cha Bát Hải Động Đình. Ngoài ra, trong dân gian người dân địa phương còn lưu truyền truyền thuyết 10 tướng của Vua Cha bát Hải sau này được coi là con của Đức Vua Cha Bát Hải. Một số các tướng lĩnh này tiếp tục được giáng trần để giúp đời. Các tướng này hầu hết là các Thánh Hoàng trong Tứ Phủ Quan Hoàng như Quan Hoàng Bơ, Quan Hoàng Bảy, Quan Hoàng Mười… Đền Vua Cha Bát Hải ở đâu? Sự tích Đền Đồng Bằng Đền Vua Cha Đức Hải Đền Vua Cha Bát Hải hay còn gọi là Đền Đồng Bằng, là ngôi miếu nhỏ được khoiiwr dụng xây vào đời vua Hùng Vương thứ 18. Lúc này, nước nhà bị giặc Thục xâm lấn song thế giặc quá mạnh khiến quân triều đình không chống đỡ nổi. Triều Đình đã lập đàn triệu Linh Sơn Tú Khí về giúp sức dẹp giặc. Thủy thần làng Đào Động tức Vua Cha Bát Hải Động Đình đã hiển linh phò Vua dẹp tan giặc giữ và có công đầu trong việc lập ra 8 trang Đào Động. Đất nước thái bình, Ngài được sắc phong “Trấn Tây An Nam Tam Kỳ Linh Ứng – Vĩnh Công Đại Vương Tối Thượng Đẳng Linh Thần” và từ đó đền là nơi địa linh thờ Ngài được cả nước hướng vọng. Vùng đất xây dựng đền trước kia có tên là trang Đào Động, một trong những phòng tuyến quân sự, đóng quân và luyện tập thủy chiến binh nhung nhà Trần vào thế kỷ 13. Cũng là nơi ghi dấu khí thế hào hùng oanh liệt của quốc gia trong kháng chiến chống giặc. Trước khi xung trận, Hưng Đạo Đại Vương cùng các tướng về dâng hương cửa đền cầu nguyện âm phù. Sau ba lần đại thắng quân Nguyên – Mông, nhà Trần đã quay lại đền đầu tư tôn tạo. Văn Khấn Đền Vua Cha Bát Hải Đền Đồng Bằng tương truyền thờ Đức Vua cha Bát Hải. Nằm trên địa bàn xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, Tỉnh Thái Bình. Ngôi đền được xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia. Là một quần thể di tích mang trong mình một truyền thuyết về nơi khai sinh và hóa thánh của 8 thánh có công chống giặc cứu nước . Lễ hội đền Vua Cha Bát Hải diễn ra vào ngày nào? Lễ hội đền Vua Cha Bát Hải thuộc chuỗi lễ hội lớn hàng năm của tỉnh Thái Bình. Hàng năm, theo tâm thức “tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”, du khách thường trảy hội đền Côn Sơn Kiếp Bạc ở Hải Dương vào ngày 20 tháng 8 rồi xuôi dòng đổ về trảy hội đền Đồng Bằng ở Thái Bình từ ngày 20 đến ngày 26 tháng 8 âm lịch với lời hẹn ước Dù ai buôn bán trăm nghề Hai mươi tháng tám nhớ về Đào thôn. Văn khấn Đền Vua Cha Bát Hải Con Nam Mô A Di Đà Phật! Con Nam Mô A Di Đà Phật! Con Nam Mô A Di Đà Phật! Con lạy chín phương Trời, con lạy mười phương Đất, con lạy mười phương chư Phật ,chư Phật mười phương, Nam Mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật. Nam Mô Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật. Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Con Lạy Chư Đại Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tăng .Hộ Pháp Chư Thiên, Thiện Thần Bồ Tát. Con lạy Tam Vị Đức Vua Cha Đức Tam Thập Tam Thiên Thiên Chúa Đế Thích Đề Hoàn Nhân Thánh Đế Ngọc Bệ Hạ Con Lạy Hiệu Thiên chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Huyền Cung Đại Đế Ngọc Điện Hạ. Con lạy Đức Phật Mẫu Hoàng Thiên Con Lạy Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình Thủy Quốc Long Vương. Con lạy Tam Tòa Thánh Mẫu Con Lạy Mẫu Đệ Nhất Thượng Thiên Con Lạy Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn Con Lạy Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ Con Lạy Mẫu Đệ Tứ Khâm Sai Con Lạy Hội Đồng Quan Tứ Trụ Triều Đình Con Lạy Tam Phủ Công Đồng, Tứ Phủ Vạn Linh hội Đồng Tiên Thánh Đông A Phủ. Con lạy Trần Triều Hiển Thánh Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương. Con lạy Trần Triều Khải Thánh Vương Phụ, Vương Mẫu, Vương Phi Phu Nhân, Trần Triều Vương Huynh, Vương Tử ,Vương Tế, Vương Nữ Vương Tôn Con Lạy văn võ bá quan quân thần trần triều Con lạy Tam Tòa chúa bói –Hội đồng Chúa bói Chúa chữa Chúa Mán Chúa Mường Con Lạy Chúa Đệ Nhất Tây Thiên Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ Chúa Đệ Tam Lâm Thao Tiên Chúa Thác Bờ Con Lạy Ngũ Phương Bản Cảnh Vũ Quận Bạch Hoa -Năm Phương Chúa Bà Con lạy Ngũ Vị Vương Quan, Tôn Quan Đệ Nhất Thượng Thiên , Tôn quan Đệ Nhị Giám Sát, Tôn Quan Đệ Tam Thoải Phủ, Tôn quan Đệ Tứ Khâm Sai, Tôn Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh. Con lạy Tôn Quan Điều Thất . Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Chầu Bà, Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn Đông Cuông Chầu Đệ Tam Thoải Phủ Chầu Đệ Tứ Khâm Sai Chầu Năm Suối Lân Chầu Lục Cung Nương Chầu Bảy Tiên La Chầu Bát Nàn Đông Nhung Đại Tướng Quân Chầu Cửu Sòng Sơn Chầu Mười Đồng Mỏ Con lạy Hội Đồng Chầu Bé-Con Lạy Chầu Bé Thượng Ngàn Quyền Cai Bắc Lệ Con cung thỉnh mời Tứ Phủ Thánh Hoàng, thập vị quan Hoàng Con lạy 36 tòa Sơn Trang -Sơn Trang, Tám Tướng Thập Nhị Tiên Nàng Con lạy Tứ Phủ Thánh Cô Con xin kính lạy Cô Nhất Thượng Thiên- Cô Cả đền Dùm Con lạy Cô đôi Thượng Ngàn Cô bơ Thoải, con lạy cô tư Ỷ La, Cô năm suối lân, cô Sáu sơn trang, Cô bảy Tân La, cô Tám Đồi Chè , 12 cô Chín, Cô chín thượng Ngàn, Cô chín Sòng sơn, cô Mười mỏ Than, Hội đồng cô bé, Con Lạy cô bé Thượng ngàn, cô bé Thoải .con lạy cô Bé Bản Đền bản điện,Con lạy Tứ Phủ Thánh Cậu trên Ngàn dưới Thoải,Con lạy Cậu đệ nhất Hoàng Thiên , Cậu Hoàng Đôi Thượng Ngàn, Cậu Hoàng Ba Thoải, Cậu Hoàng Tư Long Thành , Con Lạy Cậu Bé Hoàng Thiên , Cậu Bé Thượng Ngàn, Cậu Quận Phủ Dầy, Cậu Đồi Ngang Phố Cát .Con lạy cậu bé bản Đền Bản Điện . Con Lạy Hội Đồng Quan Ngũ Dinh, Đôi quan Thanh Xà Bạch Xà, Sơn Thần Bản Thổ Ngũ Hổ Thần Tướng- Con cung thỉnh mời chư vị Chúa Chầu các Quan thủ Đền thủ Điện, Chư vị Thành Hoàng Bản Thổ , Chư vị Thần thổ cư đồng ngự dải đất này. Đệ tử con tên là…………. tuổi………. Ngụ tại…………………………… Kim niên kim nguyệt cát nhật lương thời. Hôm nay ngày… Tháng… Năm… Dâng gì cầu gì khấn nấy hoặc theo bài bên dưới Nhân ………….. Đệ tử con nhất tâm 1 lòng, nhất tòng 1 đạo, nhất tâm trí thiết, nhất dạ chí thành, đêm tưởng ngày mong, tu thiết hương, hoa, đăng, trà, quả, thực mang miệng về tâu, mang đầu về bái, trên con tấu thượng thiên, dưới con đệ trình long cung thuỷ phủ cùng đồng gia quyến đăng cung phụng cửa đình thần tam tứ phủ ……………tên đền linh từ. Mong trên cha độ, dưới mẫu thương, đèn trời đuốc biển soi đường dẫn lối, phù hộ độ trì cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hoà , vuốt ve che trở cho gia chung chúng con trong 3 tháng hè, 9 tháng đông, tai qua nạn khỏi- Đầu năm chí giữa, nửa năm chí cuối được bình an vô sự, cửa nhà khang ninh, cầu danh đắc danh , cầu phúc đắc phúc, đắc tài sai lộc…… Dãi tấm lòng thành cúi xin Phật Thánh Chúa Tiên anh linh chứng giám!!! Cung thỉnh công đồng Lục Cung Tiên Tổ dòng họ….. nguyên quán…..,Tổ Cô Mãnh Tướng,cậu bé cô bé tại gia, chư vị tiên linh trong dòng họ theo hầu Phật Thánh cửa Đình Thần Tam Tứ Phủ, trên tấu tòa vàng Thượng Thiên , dưới tấu Thủy Cung Địa Phủ, cho con cháu nhất một lòng, tòng một đạo Sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm… KẾT LUẬN Daythangthoinoi hi vọng qua bài viết này, quý gia chủ sẽ lần lượt giải đáp được những thắc mắc của mình về ý nghĩa, nguồn gốc của văn khấn Đền Vua Cha Bát Hải. Mỗi một lễ mang một ý nghĩa khác nhau. Đền Chùa là nơi thờ cúng linh thiêng, do vậy quý gia chủ cần phải lưu ý về trang phục và cách dâng lễ. Mọi thông tin chi tiết, quý gia chủ có thể gọi về số hotline hoặc fanpage để được tư vấn và hỗ trợ. >>> Xem thêm chi tiết Lễ vật & Văn Khấn Đức Ông Đức Vua Cha Bát Hải, vị vua thủy phủ ở Động Đình Hồ, là cha của Thánh mẫu Xích Lân Long Nữ và nhạc phụ của Kinh Dương Vương. Ngài đã giúp vua Hùng diệt giặc và được tôn là Vĩnh Công. Trong hệ thống thần linh Tứ phủ, Đức Vua Cha là vị đứng hàng trên Tam tòa Thánh MẫuTruyền thừa mệnh Long Cung Bát HảiThái Ninh từ chính đại quang minhẤy nơi tụ khí chung linhQuyền cai thống lĩnh chư dinh thoải tềHãy cùng Tín Ngưỡng Việt tìm hiểu hơn những thông tin quan trọng về Đức Vua Cha Thủy PhủTruyền thuyết thần tích Đền Đồng BằngMột số sắc phong cho Vĩnh Công Đại VươngTam kỳ linh ứngĐền thờ Vua Cha Bát HảiVăn thờ Vua Cha Bát HảiTruyền thuyết thần tích Đền Đồng BằngVào thời Hùng Vương 18, Đất nước Văn Lang – Lạc Việt là giữa buổi thịnh trị, Vua sáng tôi hiền, dân miền duyên hải còn rất thưa thớt, làm nghề chài lưới và nông ấy, Sông Vĩnh cổ tức sông Đồng Bằng, thuộc xã An Lễ bảy giờ còn rất rộng, tương truyền lại còn có cả các loài thuỷ quái, thuồng luồng, giao long sinh sống. Dân đất Hoa Đào trang vùng An Lễ bây giờ cư trú dọc bên sông, nghề chính là trồng dâu nuôi tằm, dệt vải và khai khẩn bãi bồi, canh tác nông nghiệp, kết hợp chài lưới đánh bắt tôm cá trên sông. Khi Hùng Duệ Vương đã lên tuổi Kỳ lão tức tuổi 60 – ngày ấy, 60 tuổi chắc là đại thượng thọ mà vẫn chưa có con trai nối rất phiền lòng. Sinh hạ nhiều, nhưng chỉ còn lại hai Công chúaCông chúa lớn là Tiên Dung, trời se duyên cùng Chử Đồng Tử, rồi cùng tu tiên biệt tích không về. Công chúa em là Mỵ Nương, lấy Tản viên Sơn Thánh. Vua đã vài lần gợi ý trao Vương miện cho Sơn Thánh, nhưng Sơn Thánh quyết không nhận, gặp những kỳ đất nước hữu sự, ngài về Triều giúp Vua Cha, yên sự lại về Tản viên tu đạo, chứ không màng quan tước. Chính vì thế, có nhiều thế lực nhóm ngỏ Ngai Vàng còn chưa có người kế nước láng giềng ở Bắc phương, cùng lân bang Vạn Tượng, Ai Lao. cùng nung nấu ý đồ thôn tỉnh Văn Lang – Lạc ấy, có hai vợ chồng ông Phạm Túc, bà Trần thị – Sử cổ ghi rõ là người Trang An Cố thuộc Thụy Anh – Thái Bình ngày nay đã lớn tuổi, sống phúc hậu mà không có lần, họ ngược dòng đánh cả đến Trang Hoa Đào đất An Lễ, nơi toạ lạc Đền Đức Vua bây giờ và tình cờ gặp cô gái nhỏ bên sông Vĩnh, ông bà đón cô gái về nuôi tại An Cố, đặt tên là Quỷ năm sau, khi tròn 18 tuổi, Quý Nương rất xinh đẹp, đoan trang. Nhưng không nhận lời cầu hôn của ai cả. Ông bà Phạm Túc bị bệnh rồi lần lượt qua đời. Quý Nương lưu lại An Cố để hương khói báo hiếu cho bố mẹ lần Quý Nương ra cửa sông tắm, đang trời yên biển lặng, bỗng sóng gió nổi lên dữ dội, rồi thấp thoảng bóng một con Hoàng Long hiện lên quấn chặt lấy nàng. Một lát sau, khi sóng gió qua đi, Quý Nương thấy mình nằm trên bãi thời gian sau, bỗng thấy mình có thai, Quý Nương rời An Cổ trở về quê Hoa Đào trang sinh sống. Bà có thai đúng 13 tháng, vào đúng đêm ngày mồng 10 tháng giêng bà sinh ra một cái bọc, giữa ánh hào quang phát sáng rực. Quý Nương sợ hãi, ôm bọc thai thả xuống sông Vĩnh. Cũng đêm ấy, có một người cất vó bên sông sách cổ ghi rõ tên là Nguyễn Minh. Ông thấy cái bọc đã được mình cầm vứt ra nhiều lần mà cứ cố tình trôi vào vó, cực chẳng đã ông đành rạch bọc ra ánh sáng phát chói loà, ông kinh hãi thấy từ trong bọc chui ra 3 con Hoàng Xà, đầu Rồng mình lớn nhất chính là Thái Tử giao Long vượt sông lên bờ, chui vào náu thân trong một giếng nước đó chính là giếng thiêng trong Cẩm cũng Đền Đồng Bằng bây giờ, truyền thuyết còn nói rằng ông kéo vỏ khi rạch bọc, lưỡi dao đã vô tình làm đứt một thuỷ đuôi của con Hoàng Xà lớn, vì thế xưa kia các bản Hội về cúng mô hình Giao Long tại Đền Đồng Bằng, bao giờ cũng làm vật một thuỷ đuôi là theo tích này, còn hai Hoàng Xà nhỏ, bơi xuôi theo dòng nước chảy dọc sông Vĩnh, một con giạt vào Thanh Do Trang, con nhỏ nhất bơi đến tận Trang Hoa đêm ấy, dân Đào Hoa trang thấy trời nổi sấm rền, rồi từ trên không trung có tiếng nói vang động “Ta là con của Long Quân, khi có giặc sẽ giúp Vua Hùng diệt giặc”. Hôm sau, dân bản hạt đến bên giếng cạn đắp ụ đất, tạm lấy lá chuối ghi chữ đánh dấu, rồi sau lập thành Miếu thờ, từ đó hương khỏi cầu “phong đăng hoà cốc” thấy rất linh nghiệm đôi câu đối chạm hình lá chuối treo trong Cấm cung cũng là từ tích này.Lại nói Vua Hùng ngày ấy đã già, lại không con trai nối dõi. Vua thường buồn bã, hay đau yếu làm lo lắng cho trăm quan triều chính. Có nhiều thế lực trong nội bộ Bách Việt, muốn nhòm ngó Ngai vàng Lạc Việt như bộ tộc Âu Việt, do Thục Vương cai quản nguyên gốc xưa là người Trung Nguyên di cư xuống phía nam, từ lâu đã thành dân Bách Việt, và cũng chính là phụ thân của Thục Phán.Chuyện kể rằng Khi Mỵ Nương đến tuổi lấy chồng, nhan sắc tuyệt vời, phong tư đoan chính. Thục Vương mê lắm, rất muốn cưới về làm thiếp. Vua Hùng cũng có ý ưng thuận, nhưng các Lạc tướng can rằng “Thục Vương từ lâu nhòm ngó nước Văn Lang của dân Lạc Việt ta, giờ Vua lại gả Mỵ Nương cho y, khác gì đưa hổ vào tận trong nhà” vì thế Vua Hùng không gả con cho, rồi lại đem gả cho Sơn Tinh. Thục Vương giận lắm, thề dù có phải đến đời con sau này cũng sẽ quyết thôn tính bằng được Lạc vài năm sau thấy thời cơ đã đến, các nước lân bang như Ai lao, Vạn tượng, Chiêm thành hợp sức cùng quân phương Bắc, nhân Vua Hùng già yếu đã hẹn phối hợp xâm lấn nhằm thôn tỉnh Lạc Việt. Họ được một số bộ lạc trong Bách Việt như Âu Việt, Mân Việt, Nam Việt nội ửng, cùng chính sức “tinh binh bách vạn”, tuyển “Phì mã tam thiên”, tức là tập hợp hàng trăm vạn tinh binh, ngựa khoẻ. Quân đường bộ chia làm 5 đạo, hẹn đợi cánh quân đường thuỷ từ phương Bắc xuống, khi nào quân phương Bắc đã phong toả 8 cửa biển Lạc Việt, thì cả thuỷ, lục các đạo đều cùng một lúc tiến thế của giặc chấn động cả biên thuỳ, thư cấp báo đưa tin giặc dữ truyền về Kinh đô “1 ngày đến 5 lượt”. Hùng Duệ Vương rất lo lắng trước thế giặc quá mạnh, liền cho người đi mời Sơn Thánh về Kinh hiến kế phá giặc. Sơn Thánh lập tức từ Tản Viên hồi Triều, Hùng vương ngạc nhiên thấy Sơn Thánh ung dung thư thải. Vương trách“Một ngày có đến 5 tin hoả tốc cấp báo, thế giặc như lũ bão, chẳng lẽ Khanh không lo sao?”Sơn Thánh tâu rằng“Trải qua 17 đời Vua Hùng, những bậc quân vương đều là Thánh hiền, việc nghĩa nhân đã dày và nhuần thẩm, thương dân như con, ân tình ghi vào cốt tuỷ, đó là một thế mạnh. Nước Văn Lang – Lạc Việt ta hiện nay đang độ quốc phủ, binh cường, bệ hạ uy đức lan xa đến hải ngoại, thấu đến trời đất, vì thế Trời đã “đa giảng anh tài” xuống làm dân đất Việt, để mà hộ quốc cứu dân đó thôi!”.Vua Hùng hỏi, Sơn Thánh thưa“Đó là Long cung Hoàng Thái Tử đã thác sinh, đang náu ở Hoa Đào Trang, thuộc Sơn Nam Hạ, họ có 3 anh em khi độ vượt nhân, kinh luân đứng đầu kim cổ, văn võ kiêm tài. Trời lại cho giáng trần thêm mấy anh tài hiện đang làm con dân Lạc Việt ý nói về các Quan lớn của Vĩnh Công, có thể đảm đương việc cự địch xâm lăng đường biển. Nước Việt ta lại còn có “sơn thuỷ bách Thần” từ ngày lập nước rất linh ứng, hay hiển linh để phù trợ. Bởi vậy Bệ hạ chẳng phải quá lo, kẻ địch đẩy binh vô đạo, tất sẽ “thủ bại”. Bệ hạ nên cử Thái Tử Long cung trấn giữ và đánh giặc tại các “giang môn, yếu hải”, còn thần nguyện đích thân tiên phong cự địch tại các cảnh đường bộ. Thần đồ rằng chỉ vài hôm là giặc tan”.Duệ Vương nghe nói cả mừng, lập tức lệnh lập Đàn cầu Trời ứng trợ, tuần hương vừa tàn, thì Thanh Y Tiên Ông lai giảng, mách Vua cho người về Hoa Đào trang mà triệu, sẽ có dị nhân đánh tan giặc biển trích dịch Văn tự Hán Nôm cổ về Đào Động, hiện lưu giữ tại Viện TT KH-XH Việt Nam. Hùng Vương cả mừng, sai sứ giả về Hoa Đào trang tức đất An Lễ bây giờ để truyền chi du triệu kỳ nhân dẹp Sứ giả về hỏi, dân thôn kể về việc Giao Long ẩn thân trong giếng cạn trước đây. Sứ giả đến bên giếng xưởng truyền sắc chi thì thấy Hoàng Xà hiện ra rồi bỗng hoả thành một chàng trai lực lưỡng, tuấn tú hơn nhận chỉ dụ, nhờ sứ giả bảo với Vua Hùng là sẽ triệu 2 em, tuyển 10 tướng, chiêu mộ binh sĩ trong 10 ngày, rồi xuất quân đánh giặc trên cả 8 cửa biển nước Nam, hứa sau 3 ngày là giặc tan. Từ đó, ngài có tên là Vĩnh Công trọng nhân phát tích trên sông Vĩnh.Tương truyền Ngay ngày tuyển mộ đầu tiên, Vĩnh Công đã chọn được 3 tướng là Quan lớn Thượng, quan đệ Tam và Quan đệ Tứ. Trai tráng duyên hải kéo đến đầu quân rất đông, nhưng đến trưa ngày thứ 10 theo hẹn, vẫn thiếu một Công lập đàn cầu, trời điều Tam Thái Tử xuống đầu quân, ngài giáng xuống Bảo Hà Lào Cai, tương truyền thấy một tiếng sét dữ dội tại đó, rồi một luồng hào quang bay về nơi Vĩnh Công tuyển tướng, tụ thành một chàng trai tuấn tú xin ứng tuyển, đó chính là Quan Điều khi chọn được quan Điều Thất, đủ số 10 tướng, Vĩnh Công còn chọn được một mưu sĩ tài ba, quê ở Nuồi Tử Kỳ – Hải Dương làm quân sự vì thế sau này có lệ giao Trải với Nuồi. Xếp dưới 10 vị Đại tướng và một vị quân sự, Vĩnh Công còn lựa được 28 vị Nội tướng tài ba có là Ngài xếp theo đúng số Nhị thập bát Tủ của trời. Để thể hiện tình nghĩa ruột thịt cùng xả thân vì xã tắc, không câu nệ danh vọng, Vĩnh Công tuy tuổi mà phân thứ bậc các hai mũi tấn công chủ yếu bằng đường thuỷ của giặc phương Bắc là cửa sông Cái sông Hồng và cửa sông Bạch Đằng. Vĩnh Công cùng Quan lớn Thượng chặn giặc ở cửa sông Cải, Quan lớn đệ Tam cùng Quân sư Nuồi và quan đệ Ngũ chặn giặc tại cửa sông Bạch Đằng, Quan Điều Thất phụ trách ứng chiến và phối hợp tác chiến cùng các cánh quân chặn giặc đường bộ của Sơn Thánh, các vị Quan lớn khác đều được phân công đánh giặc trên 6 cửa biển khác của Nước hẹn 3 ngày, Vĩnh Công cùng tướng sĩ đánh tan giặc dữ trên cả 8 cửa biển. Thấy cánh quân đường thuỷ hùng mạnh của phương Bắc bị đại bại, nhiều cánh quân xâm lược đường bộ do các bộ lạc của Bách Việt, được sự giúp sức của các nước Ai Lao, Vạn Tượng… đang cố quyết chiến cùng quân Lạc Việt do Sơn thánh chỉ huy, nghe tin đều hoảng sợ, vội vã rút nhanh về nước. Đất nước trở lại thanh bình, Hùng Duệ Vương triệu Vĩnh Công về Triều, phong là “Vĩnh Công Nhạc phủ thượng đẳng thần”, lại có ý muốn lưu ở Kinh đô giúp việc Triều Công xin được về quê để trông nom thân mẫu, khai khẩn vùng duyên hải, chiêu dân lập ấp, dạy dân nghề nông tang tang trồng dâu nuôi tằm, dệt vải, đồng thời giúp Vua Hùng giữ yên 8 cửa biển Lạc Việt. Mười tướng theo Vĩnh Công về Hoa Đào Điều Thất về Trời ngay sau khi thắng giặc, Vĩnh Công thương xót cho lập ban thờ ngay tại dinh Công đồng, là nơi Vĩnh Công cùng chư tướng tề tựu bàn việc đó chính là Đền thờ quan Điều Thất ngày nay, thường gọi là Đền Công Đồng.Quan lớn đệ Tam được phân công giữ yên vùng duyên hải từ sông Cái lên hết biên giới biển phía bắc Lạc Việt từ tích quan lớn đệ Tam thắng giặc trên cửa sông Bạch Đằng, rồi lại tỵ nhậm cai quản vùng này nên các đời sau, khi đánh giặc trên sông Bạch Đằng, các quân vương đều về cầu và tạ tại đền đức Vua và Đền quan đệ Tam, vì cho rằng được âm phù mà chiến thắng Quan lớn đệ Thập được tỵ nhậm tại Cửu Chân, Quan đệ Tứ được phân công khai khẩn vùng bãi bắc Sơn 5 vị Nội tướng được Vĩnh Công giao sở nhiệm khai khẩn chăm dân lập Ấp tại Hoa Đào trang sau chính là 5 vị Thành Hoàng nổi tiếng linh ứng, đã có công âm phù Trưng Vương đánh thẳng quân Tô Định tại Sơn Nam hạ.Vĩnh Công lấy 10 hốt vàng được Vua Hùng ban thưởng để chia cho dân bản hạt làm vốn canh tác. Miền duyên hải Lạc Việt từ đó dân cư ngày càng đông đúc, phồn thịnh. Vua Hùng trao Vĩnh Công quản lý miền duyên hải Lạc Việt, lấy tên là Tây truyền định kỳ hàng năm, nhân ngày đại thẳng quân phương Bắc trên 8 cửa biển, Vĩnh Công triệu chư tướng về tề tựu tại Hoa Đào trang đất An Lễ bây giờ, theo ghi chép của các cụ thì ngày ấy gọi là Hoa Đào trang, một trong các trang ở vùng bãi sông Vĩnh, trấn Sơn Nam hạ, bộ Thang Truyền, quận Giao Chỉ, thuộc Châu Giao chỉ trong Bách Việt, phía tây nam nước Hoa Hạ của nhà Hán. Trong những kỳ hội tụ này, Vĩnh Công mở tiệc khao thưởng, cùng chư tướng đàm đạo về tình hình, vạch kế sách khai khẩn, chăm dân và giữ yên miền duyên hải theo uỷ thác của Vua truyền trong những ngày vui này, Vĩnh Công thường tổ chức thi bơi thuyền, giữa đội thuyền bản hạt và thuyền của các tướng, thuyền của quân sư Nuồi, để ôn lại chiến thắng, tập dượt phòng thủ và luyện quân sẵn sàng ứng phó mọi biến cố. Đường đua thuyền là một đoạn sông Vĩnh “thượng Đồng Đống, hạ Cống Đôi”, lệ thi bơi trải có từ đó và còn tồn tại mãi đến sau này. Trong những ngày kỷ niệm chiến thắng, ngài còn tổ chức thi Vật, thi võ cùng với các trò chơi dân gian khác xới vật kề cạnh một cây cầu, nên cầu này có tên là cầu Vật, tên cầu Vật vẫn dùng cho đến bây giờ.Công đức của Vĩnh Công rất lớn, vua Hùng rất nể trọng. Dân Hoa Đào trang cũng như cả vùng duyên hải coi ngài ân tình như cha mẹ. Một số năm trôi qua, một hôm Vĩnh Công mời hương lão đến dinh thất của mình tương truyền là chính đất Đền Đức Vua bây giờ mà nói rằng“Ta cùng các vị là dân lân hương ấp, ăn ở với nhau như tình ruột thịt, nay ta sắp phải vâng mệnh về chầu vua cha Lạc Long quân. Nếu có nhớ đến ta, thì nhà ta đây là miếu sở, ngày ta đi sẽ là ngày giỗ…”.Tất cả hương lão có mặt bùi ngùi, nức nở. Rồi bỗng thấy trời đất tối sầm, sấm chớp gió mưa đột khởi dữ dội. Một thoảng, trời quang mây tạnh, mọi người chỉ còn thấy xiêm áo của Vĩnh Công, đó là ngày 25 tháng 8 âm lịch năm Bính Dần. Dân bản hạt lập tức dâng biểu về Kinh, Vua Hùng thương xót, ban phong mỹ hiệu “Trấn Tây An tam kỳ linh ứng Đại Vương”, cấp tiền tang lễ, cho tu sửa dinh thất của Vĩnh Công thành miếu điện thờ tự, cho lập “điền tự” để hương hoả cho Vĩnh Công mãi mãi. Vua Hùng trao cho các tướng của Vĩnh Công tiếp tục sự nghiệp tại miền duyên hải Lạc đó, nhân ngày giỗ Vĩnh Công, các tướng lại tề tựu tại Hoa Đào trang, dâng hương cho Vĩnh Công và tổ chức các hình thức kỷ niệm ngày đại thẳng như trước đây. Lâu dần thành lệ Hội tháng 8 âm lịch mà truyền đến ngày truyền, các tướng của Vĩnh Công đều là những anh hùng cái thế, sinh tử vì Lạc Việt và bảo vệ Vua Hùng cho tới ngày Hùng Duệ Vương tuẫn tiết, nước Văn Lang – Lạc Việt sang trang sử mới, gọi là nước Âu Lạc. Các tướng của Vĩnh Công sau đó, người hóa thần, người tử trận trong chiến đấu bảo vệ đất nước Văn Lang, họ đều được lập đền thờ, được các triều đại sau sắc phong tôn vinh, kính đất Đào Động có Đền thờ Quan lớn Thượng, quan lớn đệ Nhị, quan lớn đệ Tam, quan lớn Điều Thất, quan lớn đệ Bát, tĩnh quan lớn Thượng, tĩnh quan đệ Tứ, đều được tái tạo dựng trên nền cổ tự. Quan đệ Ngũ thờ tại Đình Giới Phúc, tĩnh Quan Đệ Lục miếu Giáp Nhị đã bị thực dân Pháp phá Đệ Tam còn được thờ ở Đền Lảnh Giang Hưng Yên, Quan Đệ Tứ đền thờ chính ở Vĩnh Bảo – Hải Phòng. Quan đệ Ngũ có đền thờ ở bến đò Chanh – Hải Dương, quan Điều Thất có Đền ở Bảo Hà – Lào Cai. Quan Đệ Cửu xưa có Đền ở Thanh Hoả, Quan Đệ Thập có đền ở Nghệ An. Đền thờ Vĩnh Công Đại Vương Bát Hải Động Đình từ xa xưa đã nổi tiếng linh triều đại sau này như Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều tái sắc phong cho ngài. Vĩnh Công được coi là Thượng Đẳng Thần của đất Lạc Việt. Hội tháng 8 âm lịch tại Đền, hội tụ muôn phương dân Việt về chiêm bái lễ thành ngữ dân gian Tháng 8 giỗ Cha, tháng 3 giỗ Mẹ chính là để chỉ Hội tháng 8 ở Đền Đồng Bằng và Hội tháng 3 ở Đền Mẫu Phủ Dày. Đền Đồng Bằng là nơi “đi trình về tạ” của các bản Hội tín ngưỡng trong toàn quốc từ xa sao Đền Đồng Bằng thờ Vĩnh Công Đại Vương lại có tên là Đền Đức Vua, hay còn gọi là Đền Đức Vua Bát Hải? Tên này có từ bao giờ? Theo các cụ thì Dựa vào truyền thuyết Vĩnh Công chính là Thái Tử Giao Long như đã thuật ở phần trên, ngài là con vợ thứ của Lạc Long Quân. Vì thế khi Hùng Vương 18 cáo chung, Vua An Dương Vương Thục Phán lên ngôi, tuy cũng là dân Bách Việt nhưng thuộc dòng ngoại tộc, trong khi Vĩnh Công đã hoá thần nhưng cực kỳ linh hiển phù trợ cho dân đất Việt, vì thế mà dân tôn sùng gọi ngài là Đức có thuyết rằngSau khi đánh thắng giặc phương Bắc trên 8 cửa biển, Vua Hùng giao cho Vĩnh Công cai quản vùng duyên hải Lạc Việt – Văn Lang, đặt tên là Tây Đô, vì thế dân gian gọi ngài là Đức Vua là từ ý có một thời gian, chúng tôi trăn trở rằng vùng duyên hải ở phía đông Văn Lang – Lạc Việt, sao lại gọi là Tây Đô? Mãi sau mới hiểu ra là so với địa thế Bách Việt dưới nước Hoa Hạ cổ, thì Lạc Việt ở hướng Tây. Chứng cứ còn lại là vùng đất của Bách Việt ở sát ngay trên nước ta bây giờ, gọi là tỉnh Quảng Tây Trung Quốc, cho nên ngày ấy vùng duyên hải Lạc Việc có tên Tây Đô vì Truyền thuyết Thần tích, cấu trúc và Lễ Hội Đền Đồng Bằng – tác giả Đinh Đăng số sắc phong cho Vĩnh Công Đại VươngXin trích giải một số Sắc phong của các đời Vua đất Việt phong cho Vĩnh Công – tức Đức Vua Bát Hải Triều Vĩnh Hựu nhị niên, trọng Đông nguyệt, sơ nhậtSắc Gia phong Trấn Tây an Tam kỳ linh ứng Đại Vương Thượng đẳng Quốc tếPhóng chi ban hồi dữ cấp tiền tử bách quản. Hứa Đào Động trang ngưỡng Thần hiệu, cập hồi trùng tu miếu điện, dĩ phụng chi lưu truyền hương hoả, dữ quốc tế vĩnh thời huấn công nghĩaNiên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ 2 – đời vua Lê Ý Tông – Ngày 01/ 11 âm / 1726Sắc Gia phong Được tổ chức tế lễ theo Nghi thức dành cho những bậc Thần linh được tôn trọng bậc nhất quốc giaTruyền Chỉ dụ về tận nơi, cùng số tiền được Triều đình ban cấp là 100 quanHẹn cho Đào Động trang tổ chức lễ đón Thần hiệu, tiến hành trùng tu miếu điện thờ phụng và lưu truyền hương hoả, để cả nước về tế lễ huân công của Thần đến mãi mãiHàn lâm Viện Đông các Đại học sỹ Nguyễn Binh – Phụng soạnBát phẩm Lại bộ – thần Nguyễn Hiền – Phụng sao2. Chương Thánh tôn hiệu đệ nhị niên, trọng xuân, cát Nam Hạ trấn, Phụ Phượng quận, Đào Động trangCổ điện phụng sự Tam Kỳ linh ửng Vĩnh Công Đại Vương Bát Hải Động thượng tôn cổ Thần hộ Quốc Tỳ dân, thập phương ngưỡng vọngVạn cổ chí kim thể truyền linh ứng, đa Triều tái phong mỹ tụTử kim gia phongThượng đẳng Tôn Thần Hộ quốc tí dân, vạn đại linh ứngChuẩn phụng sự chính lệTrợ Thần tồn linh bảo ngã lê dân chi thử!Dịch nghĩaNăm Chương Thánh Gia Khánh thứ hai, đời Vua Lý Thánh Tông, ngày tốt, tiết xuân tháng 2 âm lịch, năm 1060Sơn Nam Hạ trấn, Phụ Phượng quận, Đào Động trangCổ điện phụng sự Tam Kỳ linh ửng Vĩnh Công Đại Vương Bát Hải Động vị Thần từ đời cổ được tôn trọng bậc nhất, đã có công Hộ quốc, che chở cho dân, mà mọi miền đất Việt đều ngưỡng vọngTừ cổ đến nay, được đời truyền tụng là linh ứng, nhiều Triều đại đã có Sắc gia phong với những lời ca ngợi đẹp đẽNay ban chiếu gia phong làVị Thần được tôn trọng bậc nhất, đã có công hộ Quốc, che chở cho dân, vạn năm linh ứngcho phép phụng sự, tế lễ theo chính lệĐể Thần tiếp tục linh ứng bảo vệ cho dân ta mãi lệnh!3. Thiên Đức tôn hiệu đệ ngũ niên, trung thu, vọng nhậtLạc Việt quốc, Hùng Triều đệ thập bát diệp, sắc phong thuỷ Thần phát tích Hoa Đào trang, sơn Nam Hạ phongĐệ nhất lương thần Vĩnh Công hộ quốc tỉ dânHoả Thần Binh Dần niên, bát nguyệt, nhị thập ngũ nhật, sở tại Hoa Đào trang, Sơn Nam Hạ trấn, bộ Thang Truyền. Niệm đại công sinh thời hùng lược quảng đức phù Quốc an dân. Gia phong Trấn Tây an Tam kỳ linh ủng đại vương, thượng đẳng quốc tế. Phỏng chỉ ban hồi dữ. Hứa Hoa Đào trang ngưỡng Thần hiệu, trùng tu miếu điện, dĩ cẩn phụng sự chi lưu truyền hương hoa vạn thế, đắc Thần sở tiếp linh ứng phù hộ dân Việt bất dĩ !Thư lại Lễ bộ Lý triều Chương thánh Gia Khánh nhị niên phụng soạn 15 tháng 8 năm 548. Tú tài Giáo học Đinh Đăng Quát cẩn sao. Cấm cung Bát Hải động Đình linh từ, chinh nguyệt, sơ thập nhật, Quỷ Dậu niên chép lại ngày mồng 10 tháng giêng năm 1933.Dịch nghĩaNăm Thiên Đức thứ hai, đời Vua Lý Nam Đế,Ngày 15 tháng 8 âm năm 548Thời vua Hùng đời thứ 18, nước Lạc Việt, đã sắc phong cho vị Thuỷ Thần phát tích tại Hoa Đào trang, Trấn Sơn Nam HạVua Hùng sắc phong làVị Thần có đức lớn bậc nhất là Vĩnh Công, đã có công hộ quốc, che chở cho dân taVị thuỷ Thần hoá Thần ngày 25 tháng tám năm Bính Dần, tịch tại Hoa Đào trang, Sơn Nam Hạ trấn, bộ Thang Truyền. Nhớ đến đại công khi sinh thời của Vĩnh Công hùng lược quảng đức, hộ quốc an dân, Vua Hùng gia phong Trấn Tây an Tam kỳ linh ứng Đại Vương, cho tổ chức tế lễ theo quốc lễ. Vua Hùng phỏng chỉ ban, hẹn cho Hoa Đào trang tổ chức đón rước Thần hiệu, trùng tu miếu điện, phụng sự Thần nghiêm cẩn và lưu truyền hương hoả vạn đời, để Vĩnh Công mãi linh ứng phù hộ cho dân4. Khải Định cửu niên, thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật ngày 25/7/1924Sắc! Thái Bình tỉnh, Phụ Dực huyện, Vọng lỗ tổng, Đào Động xã. Phụng sự Trấn tây an nam, tam kỳ linh ứng tôn trử linh ứng, tử kim phi thừa. Cảnh mệnh miễn niệm thần hưu, trử phong vi dực bảo Trung hưng linh phù chi thần, chuẩn kỳ phụng sự, thứ cơ thần kỳ, tương hữu bảo ngã lẽ tại!Tam kỳ linh ứngDân gian còn có truyền thuyết rằng “Tam kỳ linh ứng” trong hiệu của Đức Vua Bát Hải, không chỉ là ý Ngài phát tích ở ngã ba sông Vĩnh như thường nghĩ, mà còn là 3 lần Ngài hiển linh đánh giặc cứu nước ViệtLần 1 – Là Vĩnh công Đại Vương – Bát Hải Động ĐìnhLần 2 – Linh hiển trong hình tượng Vua Ngô Quyền đánh quân Nam Hán trên sông Bạch 3 – Linh hiển hóa thân thành Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn 3 lần đánh thẳng quân Nguyên, và lần thắng oai hùng nhất là Đại thắng thủy chiến Bạch Đằng hình tượng quan đệ Tam, một vị tướng tài ba của Đức Vua Bát Hải, cũng là Vũ Khúc Tinh Quân hiển ứng. Đến đời Trần, Ngài lại tiếp một lần hiển ứng trong hình tượng danh tướng Phạm Ngũ thờ Vua Cha Bát HảiĐền Đồng Bằng thờ Vua Cha Bát Hải Động Đình tọa lạc tại thôn Đồng Bằng, xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Đền Đồng Bằng là một bảo tàng mỹ thuật điều khắc gỗ tuyệt đẹp, một điểm du lịch hấp dẫn của vùng quê lúa Thái Đồng Bằng được nhân dân biết đến là một ngôi đền linh thiêng có từ thời vua Hùng Vương thứ 18. Đền có sắc phong “Tam Kỳ Linh Ứng – Vĩnh Công Đại Vương Tối Thượng Đẳng Linh Thần”Không chỉ mang những giá trị lịch sử đáng trân trọng, đền Đồng Bằng còn là di tích kiến trúc nghệ thuật có giá trị như một bảo tàng mỹ thuật đồ đồng, đồ đá và đồ gỗ với diện tích nội tự là gồm 13 tòa, 66 gian liên hợp chặt chẽ với nhau tạo thành quần thể ngôi đền với kết cấu theo kiểu “tiền nhị hậu đinh” khép kín, bề thế. Các mảng kiến trúc hài hòa với những nét chạm trổ tinh vi, hàng trăm hoành phi, câu đối, đại tự, cuốn thư sơn son thiếp vàng về các chủ đề tứ linh, tứ quý, các bộ lư hương, án thờ, long ngai và các công trình điêu khắc gỗ tinh xảo, tuyệt mỹ từ thời Khải Định, Bảo Đại vẫn còn được lưu giữ nguyên tục lệ hàng năm, lễ hội đền Đồng Bằng được tổ chức kéo dài khoảng một tuần từ ngày 20/8 đến ngày 26/8 âm lịch, lễ hội thu hút đông đảo con nhang đệ tử, nhân dân và du khách gần Đền Đồng Bằng, tại khu Quần thể du lịch Tâm Linh Phủ Dầy cũng có đền Vua Cha Bát Hải. Tại Phủ Vân Cát – Phủ Dầy cũng có một đền nhỏ thờ Vua Cha Bát Hải….Một số ngôi đền khác Vua Cha Bát Hải Động Đình cũng được phối thờ Vua Cha Bát HảiĐệ tử vọng bái khấu đầuThần tiến văn chầu cửa phủ Thái NinhPhủ Thái Ninh trong miền Phụ DựcDanh tiếng đồn náo nức gần xaĐộng Đình sông vắng ngã baTối linh thượng đẳng trên toà uy nghiĐôi bên ngựa phục voi quỳPhượng thì đua múa, hạc thì chầu lênTrước án tiền nức mùi hương xạTrên đền hương khói toả vân longChữ rằng “Vạn tuế thánh cung”Quy mô lồng lộng, cửa rồng nguya ngaDưới sông lác đác chèo quaBuồm giương thuận gió ắt là Tiêu TươngCảnh lạ nhường cây chầu uốn éoLá dầm khê yểu điệu màu xanhBốn bề sơn thuỷ bao quanhGần xa đều đến phục tình làm tôiĐịa linh chiếm lấy một ngôiThiên hạ tái hồi về phục Đại VươngMinh đường sơn thoải đại giangĐôi bên huyền vũ cảnh càng thanh taoKẻ anh hào gần xa đều đếnCầu việc gì ứng nghiệm linh thôngCó khi hoá vũ hành phongPhép thiêng rẽ nước giao long đi vềDưới Thuỷ Tề công đồng nghị luậnTrên Thượng Thiên mở trận mưa saTrần gian ai dễ biết thayĐộ cốt độ thày lại được ăn côngThánh độ cho khắp thanh đồngCó lòng thành kính ban công lộc nhiềuBách quan văn vũ thần liêuKhâm sai các bộ dập dìu đai cânĐứng chật sân y quan lễ nhạcTửu tam tuần tiến bước thung dungTuần sơ tuần á tuần chungNội thông ngoại dẫn đôi lòng khoan thaiLễ thưởng tiến cống đồ tươiSắc phong thượng đẳng muôn đời truyền laiHạ tuần tháng tám đôi haiTrải qua xem rạng đua tài chèo bơiMở hò reo dưới sông lừng lẫyTrên xướng ca đàn gẩy xênh trongBốn mùa xuân, hạ, thu, đôngThảnh thơi thánh vực, ruổi rong thiên đàngTrống vang lừng chiêng vàng điểm đótGiọt đồng hồ thánh thót ngân ngaDưới sông lừng lẫy kêu loaThượng từ đò Tị hạ là bến BôngĐôi bên sông đỏ đào rực rỡNhác trông lên đã ngỡ động tiênCõi trần đâu dễ mấy hơnThơm danh nức tiếng phủ miền Thái NinhTrên Thiên Đình khâm thừa đế mệnhDưới Việt Nam quốc chính hộ dânThần thông biến hoá muôn phầnBùa thiêng phép diệu xa gần sợ uyMấy huyền vi thiên trường địa cửuPhù hộ cho hoà hảo bách niênSinh ra con phượng cháu tiênLưu ân giáng phúc thiên niên thọ thêm các bản văn Vua cha Bát Hải hay khảo thêmVua Cha Thiên Phủ – Ngọc Hoàng Thượng ĐếVua Cha Nhạc Phủ – Đức Thánh TảnVua Cha Địa Phủ

vua cha bat hai dong dinh la ai