vì nhiều năm đập đá
Đập đá là gì: (Ảnh minh hoạ) Giải đáp:Chào bạn,Ngày xưa nhắc đến đập đá là mọi người thường nghĩ ngay đến đập đá đóng băng trong tủ lạnh hoặc đập những tảng đá lớn thành đá nhỏ để phục vụ trong xây dựng.Nhưng nay, nhắc đến đập đá thì ý nghĩ đầu tiên nảy lên trong đầu mọi người là
4 năm. chiếc điện thoại đập đá đầu tiên của Xiaomi nè các bác. Máy tên là Xiaomi Qin AI Phone, với chú trọng vào tính năng nghe gọi nhắn tin phát 4G bền bỉ với hai sim, cùng viên pin 1480mAh cho thời gian chờ 420h và 15h gọi điện liên tục, có tích hợp trợ lý ảo AI, hỗ trợ
Một ống nhựa (hoặc tdiệt tinh) được dẫn thẳng xuống bên dưới bình vẫn ngập nước. Phía bên hông gồm một loại vòi vĩnh vật liệu bằng nhựa (độ lâu năm tùy theo dân "đập đá" sử dụng) dùng để làm hkhông nhiều sương "đá" từ bỏ "coóng" sau khi sẽ dẫn
Vì vậy nhiều năm qua đây là địa chỉ tin cậy của nhiều học sinh, sinh viên, người đi làm,… trên cả nước. Chi phí mua máy tính đã qua sử dụng được thanh toán một lần, đầy đủ và kịp thời cho khách hàng. Ưu đãi khi mua bán máy tính cũ tại Đập Đá An Nhơn của Đại Minh Trung
"Đập đá" phá thẳng vào thân Sau hơn một năm "bén duyên" với ma túy "đá", Nam trở nên thân tàn ma dại, tay chân lở loét, cứ hễ trời hanh khô một chút là da nứt toác, chảy máu. - Sau hơn một năm "bén duyên" với ma túy "đá", Nam trở nên thân tàn ma dại, tay chân lở loét, cứ hễ trời hanh khô một chút là da nứt toác, chảy máu.
materi pai kelas 4 semester 2 kurikulum 2013. Nhắc tới Quảng Bình là không thể nào không nhắc tới vẻ đẹp của thiên nhiên, núi rừng nơi đây. Và Đập Đá Mài cũng là một trong những địa điểm sở hữu vẻ đẹp đậm chất thiên nhiên. Như cái tên của nó, nơi đây có nguồn nước mạnh chảy qua đá tạo nên một không khí mát mẻ, trong lành. Nếu bạn đang tìm kiếm một nơi để nghỉ dưỡng thì đừng bỏ qua bài review này nhé! Đập đá mài Quảng Bình là nơi ngăn dòng nước của sông Dinh. Đây là con sông chảy từ Tây sang Đông và bắt nguồn từ dãy Trường Sơn. Vì vậy mà nước tại đập chảy rất mạnh, nếu được chạm chân vào dòng nước ở đây bạn sẽ cảm thấy thoải mái vô cùng. Giống như có chiếc máy mát xa với bề mặt mát lạnh dập dềnh chạm vào lòng bàn chân khiến người ta sảng khoái. Dòng nước chảy siết, mát lạnh tại đập đá mài Đến với đập đá mài bạn sẽ được tận hưởng cảm giác ngâm chân thật thoải mái khi ngồi trên những mỏm đá lớn nhở quanh đó. Phía xa xa là núi rừng với nhiều cây xanh giúp điều hòa không khí cực tốt. Tới đập đá mài bạn có thể vừa được cảm nhận dòng nước chảy lại vừa nhìn ngắm tận hưởng vẻ đẹp của núi rừng hùng vĩ. Đây quả thực là những tuyệt tác mà tự nhiên tạo ra để nhắc nhở ta trân trọng và biết giữ gìn, bảo vệ thiên nhiên hơn. Du khách tận hưởng câu cá trên đập Đường đi tới đập đá mài có khó khăn không? Để tới được đập đá mài, các bạn cần phải di chuyển tới Đồng Hới trước. Nếu xuất phát từ Hà Nội bạn có thể lựa chọn nhiều phương tiện như ô tô, máy bay hoặc tàu. Hà Nội cách Đồng Hới khoảng 503km, đi theo đường Quốc lộ 1A CT1 và đường Xuyên Á. Để có thể từ Hà Nội tới Đồng Hới bằng ô tô thì mất khoảng 9 tiếng. Vì vậy mà du khách thường lựa chọn đi vào ban đêm để đỡ lãng phí cả ngày dài để di chuyển được tới đây. Tới Sân bay Đồng Hới để có thể di chuyển tới đập đá mài Nếu lựa chọn đi bằng máy bay thì thời gian di chuyển sẽ được giảm đi đáng kể, tuy nhiên thì chi phí đi lại cũng sẽ cao hơn khá nhiều so với ô tô. Nếu ngồi trên máy bay thì bạn chỉ cần mất khoảng 1 tiếng 30 phút là có thể tới được Đồng Hới. Tùy vào mong muốn để bạn có thể cân nhắc lựa chọn phương tiện phù hợp với mình. Hướng dấn đường đi từ Đồng Hới tới đập đá mài Sau khi tới Đồng Hới bạn có thể dễ dàng đi tới mọi địa điểm du lịch quanh Quảng Bình bởi nơi đây nằm tại vị trí trung tâm. Từ Đồng Hới tới đập đá mài bạn sẽ di chuyển bằng ô tô và mất khoảng 16 phút đi theo QL1A và QL16. Nơi đây cách đập đá mài khoảng 13km, thuận tiện cho việc đi lại. Bạn có thể nhờ tới sự giúp đỡ của dân địa phương hoặc nhờ tới Google Maps nếu điện thoại bạn kết nối 4G là có thể dễ dàng tới được địa điểm rồi. Có nên đi du lịch phượt tới đập đá mài không? Cảnh thiên nhiên xanh mượt tuyệt đẹp khi đứng nhìn từ đập đá mài Từ Hà Nội hay TP. HCM để tới được đập đá mài bạn cần phải đi một quãng đường khá dài. Nhưng nếu bạn là người yêu thích du lịch phượt bằng xe máy thì sau khi di chuyển tới Đồng Hới, các bạn có thể thuê xe máy để tự mình di chuyển tới đập đá mài. Như vậy vừa có thể giữ sức cho việc di chuyển một khoảng thời gian khá dài, vừa có thể thỏa mãn được đam mê đi phượt của mình. Vì nằm ở vị trí trung tâm nên địa điểm cho thuê xe máy ở Đồng Hới có rất nhiều, vậy nên bạn có thể yên tâm hành trình phượt từ đây nhé. Mây trời cuồn cuộn tại đập đá mài Ưu điểm của du lịch phượt đó là bạn có thể chủ động dừng chân tại những địa điểm mà bạn muốn tới. Ngồi trên xe có thể hóng nắng và gió Quảng Bình. Ngồi trên xe vi vu tận hưởng không khí quanh núi rừng hùng vĩ. Tuy nhiên thì bạn sẽ cần xem kĩ đường đi trước khi tới địa điểm mong muốn. Bởi có thể sẽ bị lạc đó! Trời mây Quảng Bình mùa nào đẹp nhất? Cũng như các tỉnh thành khác ở miền Trung, Quảng Bình có 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa khô của Quảng Bình thường diễn ra từ tháng 4 đến tháng 8 và là mùa có những trận nắng nóng đỉnh điểm nhiệt độ lên tới 40 độ C. Mùa mưa kéo dài từ tháng 9 cho đến tháng 3 năm sau và có những đợt mưa lớn chủ yếu xảy ra vào các tháng như 9, 10 và 11. Đặc biệt, tháng 10 còn là thời điểm mà nơi đây thường xảy ra bão, lũ bởi địa hình dốc, hẹp nên lũ quét có thể xuất hiện một cách bất ngờ và đột ngột. Ánh nắng chiếu rọi vào tháng 4 tới tháng 9 tại Quảng Bình Chính vì điều kiện thời tiết như vậy nên du khách thường chọn đi du lịch Quảng Bình vào khoảng giữa tháng 3 tới đầu tháng 9. Đây sẽ là khoảng thời gian khô ráo nhất để có thể tham quan, chiêm ngưỡng nhiều cảnh đẹp tại Quảng Bình. Bạn có thể xem trước dự báo thời tiết để tránh những ngày nắng nóng cực điểm. Tuy nhiên, bạn có thể yên tâm rằng tới những nơi xung quanh là núi với rừng cây um tùm tại nơi đây thì nhiệt độ đã được làm dịu đi, trở nên mát mẻ hơn. Vẻ đẹp của Quảng Bình vào mùa khô Sẽ thật tuyệt vời nếu sáng sớm tại Quảng Bình bạn có thể ghé qua các danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Vừa có thể hiểu hơn về những dấu ấn lịch sử hào hùng đã diễn ra nơi đây, lại vừa có thể tận hưởng không khí trong lành, mát mẻ mà chỉ có ở nơi nhiều núi rừng mới có. Buổi trưa các bạn có thể ghé qua một vài địa điểm để nghỉ ngơi, picnic như đập đá mài, thác tóc tiên,… vừa có chỗ ăn uống, lại có thể chạm vào làn nước trong mát lạnh tại đó. Nếu như các bạn có dịp đến Quảng Bình, nhất định phải tới mở một cuộc picnic tại Đập đá mài nhé! Chắc chắn các bạn sẽ không phải thất vọng với thắng cảnh nơi đây đâu.
Đập Đá ngày nay là một thị trấn sầm uất nằm cạnh quốc lộ 1A, con đường giao thông huyết mạch xuyên suốt Bắc – Nam nên càng thuận tiện cho việc phát triển kinh tế, thương mại. Thành Hoàng Đế đang được khai quật khảo cổ, phát hiện ra nhiều hiện vật quí giá từ thời Chiêm Thành đến thời Tây Sơn. Chắc chắn đây sẽ là địa chỉ du lịch khá thú vị cho những ai quan tâm đến văn hóa và lịch sử, không chỉ vùng thành Hoàng Đế mà cả Đập Đá nữa Đường đi vào đập Đá Bình Định Huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định có 13 xã thì hầu hết các xã được bắt đầu bằng chữ Nhơn, như Nhơn Hòa, Nhơn Hưng, Nhơn Khánh, Nhơn Phong, Nhơn Hạnh, Nhơn Thành, Nhơn Lộc… Riêng có một xã mang cái tên khác lạ Đập Đá trước là xã, nay đã thành thị trấn.Sở dĩ xã được mang tên hành chính như vậy vì xưa kia đây là vùng sông nước với sông Kôn, sông Đập Đá và nhiều nhánh chằng chịt. Các cư dân vùng này phải đắp đập bổi để canh tác gọi là đập Thạch Yển, sau là đập Thạch Đề tức là Đập Đá, vì chỗ này sông rộng, có bến đá ong nổi tự nhiên rất đẹp. Vẻ đẹp bình dị của đập Đá Đập Đá nằm ở phía đông thành Đồ Bàn xưa của Chiêm Thành và thành Hoàng Đế sau này của vua Tây Sơn Thái Đức Nguyễn Nhạc. Là phên dậu của đất đế vương nên nơi đây hội tụ nhiều ngành nghề thủ công mỹ nghệ tinh xảo để cung cấp cho vua quan và các thân bằng quyến thuộc chi dùng. Đó là nghề dệt vải với các loại hàng cao cấp như lụa, the, lương, xuyến, lãnh. Đó là nghề rèn, nghề đúc đồng với các đồ thờ cúng như tượng, lư, đỉnh… Đó là nghề làm nón ngựa, làm giày da guốc mộc để các chàng công tử ăn diện. Rồi là các nghề chăn tằm ươm tơ, nghề tiện gỗ, nghề gốm, nghề kim hoàn, nghề khảm xà cừ, nghề làm nhang, làm đồ hàng mã… khá phát triển ở mỗi thôn xóm của Đập Đá tạo nên sự đa dạng ngành nghề thủ công và việc buôn bán sầm uất. Tháp Cánh Tiên ở gần Đập Đá Đập Đá là nơi xưa kia anh Hai Trầu Nguyễn Nhạc thường xuôi ngược sông Kôn từ Tây Sơn Thượng đạo xuống, chở theo trầu cau mua bán, đổi chác hàng hóa ở đây nhưng cũng là để thăm dò dân tình, chuẩn bị tổ chức lực lượng cho cuộc khởi nghĩa. Đây chính là quê hương của ông “Chảng Ngang Thiên” Đinh Văn Nhưng, một trong những thầy dạy võ, người đỡ đầu anh em Tây Sơn. Giáo xứ Đập Đá Đập Đá nổi tiếng từ lâu đời nên đã đi vào ca daoEm về Đập đá quê chaGò Găng quê mẹ, Phú Đa quê chồng…Anh về Đập Đá đưa đòTrước đưa quan khách, sau dò ý em…Anh về Đập Đá, Gò GăngCùng em kéo sợi dưới trăng chung tình… Đăng bởi Cẩm TiênTừ khoá Đập đá
Thắng cảnh Đập Đá Dựng ở thị xã La Gi thu hút nhiều khách du lịch đến Bình Thuận bởi nó mang đặc trưng của một công trình xây dựng hài hòa với cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, vắt mình qua dòng sông Dinh chở nặng phù sa tạo nên vẻ đẹp lãng mạn, hữu tình. Thắng cảnh Đập Đá Dựng Đập Đá Dựng là một thắng cảnh được nhiều người yêu thích, nằm nối với hai bờ phường Tân An và phường Tân Bình, thị xã Lagi, tỉnh Bình Thuận. Đập nước này được xây dựng từ năm 1959, nằm ngay trung tâm thị xã Lagi. Đập có bề ngang gần 100m, lòng đập sâu gần 10m, chân đập cao khoảng 30m, được xây dựng để tưới tiêu ruộng vườn cây cối và dự trữ nguồn nước sinh hoạt cho người dân thị xã Lagi. Đập nằm ở vị trí có nhiều khối đá sừng sững nổi lên trên mặt nước. Có một điều đặc biệt ở đây là Đập Đá Dựng biến đổi hình dáng theo mùa. Vào mùa khô, nước khá cạn, bãi đá sinh ra nhiều đá con nằm phơi mình trên đáy sông giữa muôn ngàn cát vàng. Ảnh Vy Hiếu Còn khi mùa mưa đến, nước rất nhiều, thác nước dội lên những tản đá xung quanh như để chắt ra dòng nước ngọt ngào hòa vào sông Dinh trước khi về với biến cả. Không chỉ phục vụ cho mục đích cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt, Đập Đá Dựng còn là địa điểm du lịch hấp dẫn nhiều khách du lịch bởi vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng của thiên nhiên tạo hóa. Đập nổi tiếng có vườn hoa anh đào mà không bất cứ nơi đâu có. Hoa này có màu hồng phấn xếp thành chuỗi trên thân cây, thân cây suôn, không giống với hoa mai anh đào ở xứ lạnh Đà Lạt hay hoa anh đào của Nhật. Vào mùa xuân, nhất là vào dịp tết Nguyên đán, hoa nở rộ, sắc hồng của hoa nhuộm cả một góc trời. Hoa màu hồng phấn ở Đập Đá Dựng – Ảnh Coco Beachcamp Bên bờ sông Dinh được che bóng mát bởi những cây cổ thụ như trâm, dầu, bạch đàn. Đây đồng thời cũng là nơi trú ngụ của biết bao loại chim chóc. Quang cảnh ở đập – Ảnh Vy Hiếu Gần đập có một tượng sư tử tạc bằng đá rất đẹp. Nhiều khách đến đây tham quan hay kỷ niệm bằng một bức ảnh cưỡi mình trên lưng sư tử. Giữa dòng đập có xây một nhà thủy tạ trên một chân trụ, mô phỏng theo mô hình chùa Một Cột ở Hà Nội. Nhưng không lâu, khi những cơn lũ lớn tràn về, tượng sư tử bị cuốn trôi và cuốn trôi luôn cả nhà thủy tạ. Sau này, Đập Đá Dựng được cải tạo, nâng cấp, nhưng không làm mất đi cảnh quan từng khối đá với các hình thù kỳ thú khác nhau nằm lô nhô trên mặt nước, đập nước đổ xuống, hơi nước tạo ra những đám sương mù huyền ảo. Đến với Đập Đá Dựng, bạn như lạc vào thế giới thần tiên cổ tích. Ban ngày, bạn có thể câu cá trên mặt hồ, hai bên bờ sông Dinh trần ngập bóng mát. Nơi đây có một loại cá rất lớn bạn phải chinh phục được là cá chình sông. Một con nặng khoảng từ 2 – 3kg thịt rất ngon. Ban đêm, bạn không còn lo về vấn đề chỗ ở. Cách chân đập khoảng 100m là những bãi đá nhỏ, bãi cát vàng, là địa điểm thích hợp để dựng lên những căn lều để cắm trại, mọi người cùng quay quần bên nhau nấu nướng với những “chiến lợi phẩm” mà bạn câu được ban ngày. Bạn cũng có thể mua thêm đồ ăn về tổ chức ăn uống, vui chơi bên những người thân của mình. Nấu nướng chiến lợi phẩm ngay tại đập – Ảnh Phuotvl Và một điều bạn không thể quên đó là phải ghi dấu lại cảnh đứng bên chân đập giữa dòng nước trắng xóa với cây cối hoa lá xung quanh. Cứ ngỡ bạn đang lạc vào xứ sở thần tiên như trong phim kiếm hiệp Trung Quốc lúc còn bé vậy. Theo năm tháng, cảnh quan Đập Đá Dựng giảm đi nhiều do sự thiếu ý thức gìn giữ của con người. Nhưng nhờ có sự can thiệp của các cấp thẩm quyền, Đập Đá Dựng ngày càng được quan tâm tu sửa, bảo tồn và phát triển hơn nữa để biến nơi đây thành công viên nước có sự tồn tại của hồn đá núi để lại dấu ấn khó phai nhòa trong lòng của bao du khách phương xa khi đến đây. Rủ rê những người thân yêu của mình đến đây một lần để hiểu vì sao mà người ta vẫn hay gọi Đập Đá Dựng là công viên thác nước chỉ có trong cổ tích. Thu Hằng Huỳnh PR+
Những bài ca dao - tục ngữ về "Đập Đá" Muốn ăn đi xuống Muốn ăn đi xuống Muốn uống đi lên Dạo khắp bốn bên Chợ Thành, chợ Giã Chợ Dinh bán chả Chợ Huyện bán nem Dị bản Muốn ăn đi xuống, Muốn uống đi lên Quán Ngỗng, Gò Chim, Cầu Chàm, Đập Đá Vũng Nồm nhiều cá, Vũng Bấc nhiều tôm Chợ chiều bán cơm, Chợ mai bán gạo. Ai về ập á quê cha Ai về ập á quê cha Gò Găng quê mẹ, Phú Gia quê nàng Dị bản Em về ập á quê cha Gò Găng quê mẹ, Phú a quê chàng Ngó xuống sông Hương, nước xanh như tàu lá Ngó xuống sông Hương, nước xanh như tàu lá Ngó về Đập Đá, phố xá nghinh ngang Từ ngày Tây lại sứ sang Cầu Trường Tiền khác bến, chợ Đình Ngang đổi dời Ới em ơi, em ăn ở làm cho có đất có trời Đừng ham duyên mới phụ lời nước non Dị bản Ngó xuống sông Hương, nước xanh như tàu lá Ngó về Đập Đá, phố xá nghinh ngang Từ ngày Tây lại sứ sang Đi xâu, nộp thuế, làm đàng không ngơi. Anh về ập á đưa đò Anh về ập á đưa đò, Trước đưa quan khách, sau dò ý em Đò từ Đông Ba, đò qua Đập Đá Đò từ Đông Ba, đò qua Đập Đá Đò từ Vĩ Dạ, thẳng ngã ba Sình Lờ đờ bóng ngả trăng chênh Tiếng hò xa vọng, nhắn tình nước non Nước Đông Ba chảy qua Đập Đá Nước Đông Ba chảy qua Đập Đá Nước Vĩ Dạ chảy xuống ao hồ Em chưa có chồng thì nói việc đế đô Có chồng rồi thì khác chi trâu dại, bạ chỗ mô cũng cà Anh nguyền cùng em Chợ Giã cho chí cầu Đôi Anh nguyền cùng em Chợ Giã cho chí cầu Đôi Nguyền lên Cây Cốc, vạn Gò Bồi giao long Anh nguyền cùng em thành Cựu cho chí thành Tân Cầu Chàm, Đập Đá, giao lân kết nguyền Trung Dinh, Trung Thuận cho chí Trung Liên Trung Định, Trung Lý cũng nguyền giao ca Anh về Đập Đá, Gò Găng Anh về Đập Đá, Gò Găng Để em kéo vải sáng trăng một mình Dị bản Anh về Đập Đá, Gò Găng Cùng em kéo sợi dưới trăng chung tình Chợ Gò Chàm Tên một phiên chợ ở Bình Định. Trước đây chợ ở cách thị trấn Bình Định khoảng hai cây số về phía Bắc. Vùng này có tên là xứ Lam Kiều vì trồng nhiều cây chàm để nhuộm vải, vì vậy chợ có tên chữ là Lam Kiều thị. Đúng ra phải gọi là chợ Cầu Chàm, nhưng dân chúng lại quen gọi là chợ Gò Chàm. Bởi đó, có người còn cho rằng chợ được lập trên vùng đất gò có nhiều mồ mả người Chàm. Năm 1940, chợ Gò Chàm dời vào khu đất phía đông bắc bên ngoài thành Bình ịnh, sát với khu phố của thị trấn và đổi tên là chợ Bình ịnh, hay chợ Thành, nhưng dân chúng vẫn quen gọi tên cũ. Chợ mới vẫn giữ vai trò lớn nhất tỉnh, nhóm chợ mỗi ngày và mỗi tháng có sáu phiên vào các ngày mồng 3, 8, 13, 18, 23, 28. Ngoài ra, xưa nay vẫn giữ lệ phiên chợ 23, 28 tháng chạp âm lịch nhóm suốt ngày đêm và đông hơn các phiên chợ khác trong năm. Chợ Bình Định ngày nay Chợ Giã Còn gọi là chợ Quy Nhơn, một phiên chợ ở tỉnh Bình Định, thuộc làng Chánh Thành bao gồm phường Hải Cảng, Trần Phú và một phần phường Trần Hưng Đạo và phường Lê Lợi ngày nay, cùng với chợ Thị Nại chợ Quy Nhơn ngày nay là những trung tâm mua bán sầm uất vào bậc nhất của cảng Thị Nại với các sản phẩm như gạo, củi, vôi, ngư cụ dưới thời nhà Nguyễn. Chợ Dinh Một ngôi chợ nay thuộc thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Chợ Huyện Một địa danh nay là làng Vinh Thạnh, xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Chợ Huyện nổi tiếng với món nem chua cùng tên. Cổng làng Chợ Huyện Nem chợ Huyện Nem ở huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Đây là đặc sản rất nổi tiếng của tỉnh Bình Định. Nem chợ Huyện Quán Ngỗng Một cái chợ ở thôn Chánh Định, xã Cát Chánh, huyện Phù Cát, sát với huyện An Nhơn, Bình Định. Chợ Quán Ngỗng hình thành từ thời kì người Chàm thành Đồ Bàn sống chung với người Việt, khoảng thế kỉ 17, 18. Có tên như vậy vì chợ bán nhiều gia cầm. Gò Chim Tên một cái chợ ở thôn Phú Giáo xã Cát Thắng, huyện Phù Cát, Bình Định. Trước kia chợ nổi tiếng có nhiều thợ bạc khéo tay. Ngày nay chợ vẫn còn hoạt động. Cầu Chàm Tên chữ là Lam Kiều, một địa danh nằm ở phía Bắc Bình Định ngày trước. Tại đây có trồng nhiều cây chàm để nhuộm nên gọi là Cầu Chàm, sau đọc trại ra thành Gò Chàm. Đập Đá Một địa danh nay là một phường thuộc thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngày xưa đây là vùng sông nước, nhân dân phải đắp đập bổi để canh tác, gọi là đập Thạch Yển, sau là đập Thạch Đề tức là Đập Đá. Nằm ở phía đông thành Đồ Bàn xưa của Chiêm Thành và thành Hoàng Đế sau này của vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc, nơi đây hội tụ nhiều ngành nghề thủ công mỹ nghệ tinh xảo để cung cấp cho vua quan và các thân bằng quyến thuộc chi dùng dệt vải, rèn, đúc đồng, gốm, kim hoàn... Hiện nay Đập Đá là một địa điểm du lịch có tiếng của Bình Định. Nghề dệt sợi ở Đập Đá Vũng Nồm Địa danh thuộc xã Nhơn Lý, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định hiện nay, còn có tên là thôn Xương Lý. Vũng Nồm Vũng Bấc Một địa danh thuộc xã Nhơn Lý, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định hiện nay, còn có tên là thôn Hưng Lương. Vũng Bấc Gò Găng Một địa danh nay thuộc phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Tại đây có nghề làm nón truyền thống, đồng thời có phiên chợ nón Gò Găng rất độc đáo, họp từ nửa đêm đến rạng sáng. Nón làm ở chợ Găng ngày xưa chủ yếu là nón ngựa. Chợ nón Gò Găng Phú Gia Một thôn nay thuộc xã Cát Tường, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Phú Gia nổi danh với nghề làm nón ngựa. Phú Đa Một ngôi chợ thuộc thôn Tân Dân, thuộc tổng Háo Đức thượng, nay thuộc xã An Nhơn, thị xã Nhơn An, tỉnh Bình Định. Theo người xưa thì ông Võ Văn Thành, quê ở Phú Đa làm quan đại thần dưới triều chúa Nguyễn Phúc Trăn 1678 – 1691 và ông tổ họ Trần là những người có công thành lập chợ. Nhờ nằm trên các trục lộ giao thông, xe cộ, thuyền bè qua lại thuận tiện nên thời bấy giờ Phú Đa là một trung tâm thương mại ở phía nam Bình Định. Chợ họp một tháng 6 phiên vào những ngày 4 và 9 4, 9, 14, 19, 24, 29 mỗi tháng. Ngoài ra, ngày nào cũng có chợ chiều đông đúc phục vụ nhu cầu mua bán của nhân dân cả vùng. Sông Hương Tên con sông rất đẹp chảy ngang thành phố Huế và một số huyện của tỉnh Thừa Thiên-Huế. Tùy theo giai đoạn lịch sử, sông còn có các tên là Linh Giang, Kim Trà, Hương Trà... Ngoài ra, người xưa còn có những tên địa phương như sông Dinh, sông Yên Lục, sông Lô Dung... Sông Hương đã được đưa vào rất nhiều bài thơ, bài hát về Huế, đồng thời cùng với núi Ngự là hình ảnh tượng trưng cho vùng đất này. Cầu Tràng Tiền bắc ngang qua sông Hương Đập Đá Tên một con đập nổi tiếng của Huế, bắt ngang qua một nhánh sông Hương, ngăn cho dòng nước từ thượng lưu không chảy về phía hạ lưu và ngăn nước mặn từ biển Thuận An chảy vào các cánh đồng lúa. Đập Đá Công sứ Chức danh cai trị của người Pháp trong thời kì Pháp thuộc, đứng đầu một tỉnh. Cầu Tràng Tiền Còn có tên gọi là cầu Trường Tiền, một chiếc cầu gồm sáu nhịp dầm thép thiết kế theo phong cách kiến trúc Gothic, bắc qua sông Hương, ngay trung tâm thành phố Huế. Đây là một trong những chiếc cầu thép đầu tiên được xây tại Đông Dương. Tràng Tiền hay Trường Tiền đều có nghĩa là "công trường đúc tiền" vì chiếc cầu này được xây gần công trường đúc tiền của nhà Nguyễn. Sau 30 tháng 4 năm 1975, tên gọi dân gian này trở thành tên chính thức. Trước đó, cầu còn có các tên gọi khác cầu Đông Ba do ở gần chợ Đông Ba, cầu Mây, cầu Mống, Thành Thái, Clémenceau, và Nguyễn Hoàng. Cầu Tràng Tiền Chợ An Cựu Một ngôi nằm bên bờ Bắc sông An Cựu, xưa thuộc làng An Cựu, huyện Hương Trà, nay thuộc phường Phú Hội, thành phố Huế. Trước đây, chợ có tên là chợ Đường Ngang vì nó nằm trên một trong những đường ngang thẳng góc với sông Hương. Chợ có từ thời Minh Mạng. Năm 1835, khu vực chợ được dùng để dựng Nam Trường Đình, về sau có người Hoa buôn bán đông đúc. Nay chợ vẫn là một trong những chợ sầm uất ở phía Nam thành phố Huế. Chợ An Cựu ngày nay Vị trí chợ An Cựu ngày xưa bây giờ là Nhà Văn hóa trung tâm thành phố Huế. Trước đây, vì gần đó có trại lính Pháp nên người Pháp bắt chợ phải dời đến địa điểm hiện nay. Xâu Cũng gọi là sưu, món tiền mà người đàn ông từ mười tám tuổi trở lên phải nộp sưu thế, hoặc những công việc mà người dân phải làm cho nhà nước phong kiến hay thực dân đi xâu. Đàng Đường, hướng phương ngữ Trung và Nam Bộ. Đập Đá Địa danh nay thuộc xã Mỹ Thọ, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Đông Ba Một địa danh ở Huế, vốn là tên dân gian của cửa Chính Đông, kinh thành Huế. Địa danh này gắn liền với chợ Đông Ba, ngôi chợ nổi tiếng nhất của Huế, trước đây tên là Quy Giả thị "chợ của những người trở về," đánh dấu sự kiện trở lại Phú Xuân của quan quân nhà Nguyễn. Đến năm 1887 vua Đồng Khánh cho xây lại gồm có “đình chợ” và “quán chợ” lấy tên là Đông Ba. Đến năm 1899, trong công cuộc chỉnh trang đô thị theo phong cách phương Tây, vua Thành Thái chuyển chợ Đông Ba về vị trí bây giờ, đình chợ cũ sửa lại làm thành trường Pháp Việt Đông Ba. Địa danh Đông Ba thật ra tên cũ là Đông Hoa, nhưng do kị húy với tên vương phi Hồ Thị Hoa dưới thời Nguyễn mà đổi tên. Chợ Đông Ba ngày trước Vĩ Dạ Một địa danh thuộc Huế. Tên gốc của làng là Vĩ Dã, từ cách phát âm của người dân Huế mà dần trở thành Vĩ Dạ. Làng Vĩ Dạ nằm bên bờ sông Hương, phong cảnh thơ mộng, đã đi vào thơ ca nhạc họa, nổi tiếng nhất có lẽ là bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của nhà thơ Hàn Mặc Tử Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên. Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Toàn cảnh thôn Vĩ Dạ ngày nay Ngã ba Sình Ngã ba sông nơi gặp nhau giữa sông Hương và sông Bồ trước khi xuôi về phá Tam Giang đổ ra biển. Đây cũng là nơi sinh tụ của nhiều làng nghề như tranh làng Sình, hoa giấy Thanh Tiên cùng với các hoạt động văn hóa đặc sắc. Video về Ngã ba Sình Ngã ba Sình Bạ Tùy tiện, không cân nhắc. Mô Đâu, nào phương ngữ Trung Bộ. Cầu Đôi Tên chung của hai cây cầu song song nhau, một dành cho xe lửa và một dành cho đường bộ, nằm ở cửa ngõ thành phố Quy Nhơn, Bình Định, bắc trên nhánh sông từ hồ đèo Son chảy ra đầm Thị Nại. Cầu Đôi Cây Cốc Tên một cái đèo ở tỉnh Bình Định. Gò Bồi Tên một vạn làng chài thuộc làng Tùng Giản, xã Phước Hoà, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, nơi sông Côn đổ ra biển. Thị trấn Gò Bồi xưa giữ vị trí khá quan trọng trong giao lưu, kinh tế, văn hóa, du lịch của tỉnh. Đặc biệt ở đây có nghề làm nước mắm truyền thống từ hai trăm năm trước. Anh đã thở hơi nước mắm ngon của vạn Gò Bồi Nên đến già thơ anh còn đậm đà thấm thía. Đêm ngủ ở Tuy Phước - Xuân Diệu Gò Bồi ngày nay Đồ Bàn Tên một thành cổ nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, cách thành phố Qui Nhơn tỉnh Bình Định 27 km về hướng tây bắc. Đây là kinh đô của Chăm Pa trong thời kỳ Chăm Pa có quốc hiệu là Chiêm Thành. Thành Đồ Bàn còn có tên là Vijaya, thành cổ Chà Bàn, thành Hoàng Đế, hoặc thành Cựu. Sư tử đá trong thành Đồ Bàn Thành Bình Định Tên một tòa thành cổ, được vua Gia Long cho xây dựng vào năm 1814 với vai trò là thủ phủ trung tâm của vùng đất Quy Nhơn, Bình Định, hiện nay thuộc đường Lê Hồng Phong, phường Bình Định, trung tâm thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thành được sử dụng trong thời gian 132 năm, từ năm 1814 đến năm 1946. Từ năm 1946, do cuộc chiến tranh với Pháp thành đã bị phá hoàn toàn. Hiện nay chỉ còn biểu tượng của ngôi nhà đón khách còn sót lại và cổng thành phía đông cửa đông được xây dựng lại, bên trên có tầng lầu. Thành Bình Định được dân gian gọi là thành Tân, đối lại với thành Cựu thành Đồ Bàn. Cửa Đông thành Bình Định hiện nay Giao lân Đi lại giao với hàng xóm láng giềng lân. Tên các làng thuộc tổng và phủ của Bình Định ngày trước.
Ở tỉnh Bình Định có 3 con sông chính sông Lại Giang, sông La Tinh và sông Côn sông Tuy Viễn cùng nhiều chi lưu, bên cạnh hệ thống bờ xe nước, hệ thống đập bổi được người xưa sử dụng ở hầu hết các tuyến sông này để đưa nước về đồng. Hệ thống đập bổi được đắp tương đối sớm, có số lượng nhiều, phân bố khá đậm đặc và dấu tích miếu thờ các bậc tiền hiền còn tồn tại nhiều ở khu vực hạ lưu sông Côn thuộc Nhơn và các huyện Tây Sơn, Tuy Phước, Phù Cát. Lập miếu thờ tiền nhân có công xây đắp đập Hiện vùng hạ lưu sông Côn còn lại một số dấu tích miếu thờ các bậc tiền hiền có công đắp đập ngăn sông, khai thông mương mán đưa nước về đồng, được nhân dân địa phương tu bổ tôn tạo, chăm sóc tế lễ và được xếp hạng di tích như miếu ông Văn Phong ở xã Tây An, Sơn, dinh tiền hiền thờ hai anh em ông Lê Kim Bôi và Lê Kim Bảng ở xã Tây Phú, Sơn. Ngoài ra còn có 3 ngôi miếu khác là miếu bà Châu Thị Ngọc Mã và bà Trần Thị Ngọc Lân ở Đá, Nhơn, miếu ông Trần Đình Cơ và ông Nguyễn Cảnh Chiêm ở thôn Hòa Cư, Hưng, Nhơn, miếu ông Trần Văn Nghĩa ở thôn Lục Chánh, xã Phước Lộc, Phước đã bị sụp đổ, chỉ còn lại dấu vết nền móng miếu. Năm 2019, miếu hai bà Châu Thị Ngọc Mã và bà Trần Thị Ngọc Lân được nhân dân đóng góp tiền khôi phục lại trên nền miếu xưa phía bắc bờ Đập Đá. Vùng hạ lưu sông Côn từ làng Kiên Mỹ nay thuộc Phong, Sơn đến cửa Thị Nại Nhơn khoảng hơn 30 cây số, thì cũng có khoảng hơn 30 đập lớn nhỏ kể cả các chi lưu của sông Côn đã được Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán Triều Nguyễn ghi chép và Nước non Bình Định của Quách Tấn cũng ghi lại như đập Văn Phong, Bằng Châu, Đông Tháp, Đập Thốt, Bảy Yển, Tháp Mão, Thị Lựa, Bến Cát, Thạnh Hòa, Tri Huyện, Kỳ Bương, Cây Sung, Sầu Đâu, Bạn Cát, Giáo Đất, Trường Giang, Ngô Đồng, Gia Phù, Gò Đỗ, Hiệp Sơn, Ma Na, Kí Lược, Lão Tự, Phủ Sinh, Văn Chiêm, Phổ Trạch, Kí Lục, Phú Xuân, Trung An, Xuân An, Tiên Yên, Tân Hòa, Thuận Hạc, Đập Đá... Theo Trần thị Gia phả của họ Trần ở thôn Tri Thiện xã Phước Quang, Phước, ông tổ Trần Đình Cơ cùng với ông Nguyễn Cảnh Chiêm trong 8 năm ròng dưới triều Lê Cảnh Trị 1663-1671 đứng ra xây đắp công trình thủy nông đập Bến Cát và xây dựng hệ thống kênh mương đưa nước về đồng ruộng 6 thôn Quảng Nghiệp, Liêm Trực, Tri Thiện, Phục Thiện, Lộc Ngãi và Định Thiện. Đây là công trình thủy nông sớm nhất biết được hiện nay của vùng Bình Định. Từ đó, nhân dân 6 thôn và các chức yển suy tôn ông Trần Đình Cơ và ông Nguyễn Cảnh Chiêm là “Sáng thủy nhị tiền hiền”. Đồng thời, nhà nước trí trạch 10 mẫu ruộng để đáp lại công đức hai ông và cùng với họ Trần 3 lần xây dựng, trùng tu miếu thờ ông Trần Đình Cơ ban đầu tại thôn Khánh Lễ, sau chuyển về đập Bến Cát, thuộc thôn Hòa Cư nay thuộc Hưng, Nhơn. Hàng năm, mỗi lần cúng tế tại đập Bến Cát đều có đem biếu kiến tiền hiền một tợ thịt heo ba sườn cùng một tộ lòng. Phần thịt này con cháu tiền hiền ở từ đường được hưởng. Để đôn đốc việc xây đắp, tu bổ đập, nạo vét mương và phân chia nước, 6 thôn tổ chức họp bầu ra Ban Yển. Người trong họ Trần thuộc thôn Tri Thiện luôn luôn được bầu làm Chánh Yển nhằm tri ân dòng họ có người đầu tiên đứng ra khởi xướng xây đắp đập, các dòng họ khác chỉ được bầu làm Phó Yển và Thủ Yển. Tục lệ này được giữ suốt trong 3 thế kỷ thừ thế kỷ 18 đến thế kỷ 20, đến đời Chánh Yển cuối cùng năm 1975 là ông Trần Văn Từ dòng họ tiền hiền Trần Đình Cơ ở thôn Tri Thiện. Cũng theo Trần thị gia phả, dưới triều vua Gia Long 1802-1820, việc trị thủy, chống hạn... được đề cao như việc chống giặc, “Yển ước quan bằng” được lập văn bản quy ước về đê điều. Cháu 6 đời ông tổ Trần Đình Cơ là Trần Văn Nghĩa đã cùng với hai bà họ Châu ở thôn Dương Lăng và họ Trần ở thôn Háo Đức, xã Nhơn An, Nhơn tổ chức đắp đập Bảy Yển tại nơi phân lưu Bắc phái và Nam phái. Hai bà Châu - Trần chịu trách nhiệm Bắc phái, ông Trần Văn Nghĩa chịu trách nhiệm Nam phái. Nhánh sông Nam phái từ thôn Phụ Ngọc chảy xuống hướng Nam qua thành Bình Định xuống Tân An… Bức hoành họ Trần thôn Tri Thiện ẢNH NGUYỄN THANH QUANG Đồng thời, ông Nghĩa cho đắp bờ cừ suốt 10km từ Tân An thuộc Nghi, Hòa, Nhơn đến thôn Tân Điền xã Phước Quang, Phước, thu hẹp sông Côn để khẩn hoang ruộng từ “bãi cát vàng” và đáy sông Côn tạo ra cánh đồng “xứ Sông Cạn” và những hồ giữ nước chống hạn như Bàu Sen, Bàu Lác, Bàu Mán. Ông được quan trấn tỉnh Bình Định cấp bằng Đề Lĩnh, người đời sau tôn vinh là “Hậu Hiền Đề Lĩnh” và xây miếu thờ ở thôn Lục Chánh xã Phước Lộc, Phước. Đập Bảy Yển chia nước cho Nam – Bắc phái, trong đó có 7 đập ở Nam phái Thị Lựa, Tháp Mão, Bến Cát, Thạnh Hòa, Tri Huyện, Cây Sung và Gò Đỗ. Đến năm 1959, đập Bảy Yển được xây bằng xi măng và vẫn giữ nhiệm vụ phân nước cho Nam phái và Bắc phái, đưa nước về những cánh đồng của 2 huyện Tuy Phước, Phù Cát và Nhơn trước khi đổ ra biển là cửa sông Gò Bồi. Đập xây bằng xi măng đầu tiên ở Trung kỳ Theo Đại Nam nhất thống chí, bắc phái sông Côn từ thôn Nghĩa Nhơn chảy ra đông - bắc, đến Tân Kiều lại chia làm 2 chi một chi chảy vào nam 12 dặm đến thôn Phương Mính, làm sông Thạch Yển, lại thuận dòng chảy hơn 30 dặm đến thôn Đa Tài, huyện Tuy Phước. Chi thứ 2 chảy về phía bắc 8 dặm đến thôn Thuận Chánh là sông Gò Găng. Sông Thạch Yển xưa gọi là sông Bằng Châu, đập bổi mà hai bà Châu - Trần đắp để dẫn nước vào ruộng, trong Đại Nam nhất thống chí gọi là "Bằng Châu giang Thạch Yển" Đập Đá sông Bằng Châu. Vì sao lại gọi là Thạch Yển Đập Đá trong khi đập đắp bằng bổi thì trong Đại Nam nhất thống chí có giải thích vì lòng sông có đá nên gọi tên ấy. Để nhớ công đức hai bà, người đời sau đã lập dinh thờ hai bà tại Đập Đá và tổ chức tế lễ, hát bội vào tháng 3 hàng năm. Dinh thờ hai bà bị sập đổ trong chiến tranh, còn di tích nền móng, hiện nay người dân địa phương vận động đóng góp kinh phí phục hồi dinh thờ hai bà tại vị trí di tích. Năm Bính Thìn 1916 triều Khải Định, Hội Bảo nông Bình Định do Bá hộ Nguyễn Cẩn, Bá hộ Lâm Thanh Cẩn và Phú hộ Ôn Huỳnh Châu đứng ra cổ động góp cổ phần xây Đập Đá bằng xi măng thay đập bổi để dẫn thủy nhập điền. Trong Lâm Viên hành trình nhật ký, là thiên ký sự của Đoàn Đình Duyệt - một quan chức cao cấp triều Nguyễn, nhân chuyến đi công cán đến tỉnh mới Lâm Viên nay là Lâm Đồng vào năm 1917, tức là 1 năm sau khi Đập Đá được xây xi măng có ghi lại bản dịch của Phạm Hoàng Quân có nêu Ông đi qua Bình Định được các quan tỉnh đưa đi xem Hội Bảo nông ở trong hạt chất đá đắp đập. Đây là đập dùng xi măng mà đúc thành, cắt ngang giữa sông, dài hơn 100 thước tây, thông dòng nước bằng 9 cửa, vòng vo đen ngòm, nương theo thế nước. Cửa thông nước dùng ván gỗ chia bậc chắn ngang, mỗi bậc đều có thước tấc để tùy lúc đóng mở, cũng lấy đó mà quy ước giới hạn. Đập chia phải trái hai bờ, lấy đá lớn đắp làm móng đề phòng nước lũ xói mòn hai bên bờ sông, trên móng lại chất không biết bao nhiều là đá, quy cách có hơi mới. Bây giờ, ông già bà cả trong hạt vây quanh mà xem ước có cả trăm người, họ đều bảo rằng từ lúc làm Đập Đá này đến nay, được hai vụ trúng mùa lớn, dân tình rất vui vẻ. Với nhà nông ở tỉnh, việc đắp đập rất quan trọng, phàm đắp đập ngang dọc, chứa nước bao nhiêu, xả nước ít nhiều đều phải có văn thư giao ước. Chỗ con Đập Đá này, nguyên trước kia có hai bà mua đất riêng, mở dòng nước riêng mà giữ nước sông Đại An. Đập lúc ấy dùng vật liệu là các thứ gốc rạ, thân tre bện với cát mà đắp thành, thường bị lũ lụt xói mòn, mỗi năm đều phải đắp, nhà nông phải chịu tốn kém mỗi lần đắp khoảng 3 ngàn đồng. Một lần nước lũ phá vỡ đập là cả năm phải chịu đói kém. Năm trước nhà nông Nguyễn Cẩn mới đệ đơn xin gom cổ phần mà đắp đập bằng đá và xi măng, tính ra hơn vạn bạc, làm một năm thì xong. Những người tham gia tổ chức việc đắp đập đều được quan tỉnh tưởng thưởng. Và ông nhận xét về Đập Đá như sau “Nay thần đến xem, quả thực thấy đập này bền chắc lắm, trong các quytắc đắp đập thì đây thực là tối tân, ta đang có chủ trương cải cách việc nông nghiệp ở Trung kỳ, nếu phỏng theo đây mà làm thì ắt được lợi ích lâu dài vậy”. Cũng theo Đoàn Đình Duyệt, Đập Đá là đập xây xi măng đầu tiên của Trung kỳ. Sau năm 1975, toàn bộ đập bổi ở Bình Định đã được thay thế bằng hệ thống đập bê tông cốt thép kiên cố. Hiện nay, Đập Đá vẫn còn sử dụng và được tu bổ kiên cố hơn, dài khoảng 100m có 4 cửa, mỗi cửa có 3 hộc xả nước, mỗi hộc có 2 lớp vách ngăn, thuộc thôn Phương Danh, phường Đập Đá, huyện An Nhơn, cách trụ sở UBND phường khoảng 500m về hướng Nam. Tên Thạch Yển - Đập Đá đã có từ xa xưa. Nhưng Đập Đá nổi danh từ sau khi đập được xây đắp bằng xi măng làm cho các cánh đồng xung quanh trở nên trù phú, phồn thịnh. Năm 1949, thể theo nguyện vọng của nhân dân, Ủy ban hành chánh tỉnh Bình Định đã thành lập xã Đập Đá thuộc An Nhơn gồm 4 thôn Phương Danh, Bằng Châu, Bả Canh, Mỹ Hòa. Hiện nay, là phường Đập Đá, thị xã An Nhơn. Đập Đá từ tên một con đập bổi đã trở thành một địa danh nổi tiếng - Em về Đập Đá quê cha Gò Găng quê mẹ, Phú Đa quê chồng - Anh về Đập Đá đưa đò Trước đưa quan khách, sau dò ý em - Anh về Đập Đá, Gò Găng Để em kéo vải sáng trăng một mình. Hơn 3 thế kỷ, các bậc tiền hiền ở Bình Định nói chung và vùng hạ lưu sông Côn nói riêng đã hình thành một hệ thống thủy nông - đập bổi đưa nước về đồng ruộng, tạo nên những cánh đồng trù phú cho 4 huyện Tây Sơn, An Nhơn, Tuy Phước và Phù Cát… Nơi đây, đã trở thành vựa lúa từ thuở còn là miền biên viễn của Đại Việt cho đến tận bây giờ. Ngày nay, đập bổi đã được thay thế bằng những công trình thủy lợi kiên cố bê tông cốt thép, nhưng những di tích miếu thờ tiền hiền như lời nhắn của tiền nhân cho thế hệ sau về một thời ngăn sông, thông mương đưa nước về đồng bằng đập bổi của ông cha.
vì nhiều năm đập đá