vì sao việt nam nghèo
Giảm nghèo bền vững; Vì sao chợ cóc đang bùng phát mạnh mẽ ở TPHCM? 18/10/2022 | 17:07. 0:00 / 0:00. 0:00. Nam miền Bắc. TPO - Trở về Việt Nam sau nửa tháng thi đấu và giành vương miện Hoa hậu Liên lục địa tại Ai Cập, Bảo Ngọc cho biết cô sụt cân vì ăn uống khó khăn.
Trả lời câu hỏi vì sao người dân không làm nhiều hơn nhưng nền kinh tế nước Anh vẫn ổn định, GS Alan Hudson cho biết nền kinh tế Anh có mức độ phát triển cao. Mặc dù có nhiều công việc kỹ năng thấp trong các khu vực kinh tế chính, tuy vậy năng suất của nhóm này không hề thua kém lực lượng lao động có tay nghề cao.
Bài viết này sẽ cho bạn biết tại sao Việt Nam lại "trông" giàu hơn Philippines và nước nào mới là nước giàu hơn. Công cuộc xoá đói giảm nghèo của Việt Nam có thể được xem như là kỳ tích khi đánh giá vào thời điểm hiện tại. Từ gần 90% dân số sinh hoạt ở tỉ
Tại sao việt nam nghèo hèn. 04/06/2021. Tình trạng túng bấn và khác hoàn toàn nhiều nghèo ngày càng tăng sống trên nhân loại nói phổ biến và làm việc đất nước hình chữ S nói riêng là nhì chủ đề tạo nên các công ty làng mạc hội học với kinh tế gia lưu trọng điểm
Chỉ rõ 'Vì sao người Việt mãi nghèo', sếp FPT tin rằng 'Nhất định đất nước ta sẽ giàu' "Tôi rất lạc quan và luôn tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc, của đất nước Việt Nam thân yêu. Tôi tin tưởng sâu sắc, nhất định đất nước ta sẽ giàu, sẽ đuổi
materi pai kelas 4 semester 2 kurikulum 2013. Thúc đẩy giảm nghèo nhanh và bền vững theo mọi chiều cạnh và mọi nơi ở Việt Nam - Báo cáo Nghèo đa chiều Việt Nam năm 2021 25 July, 2022 Báo cáo Nghèo đa chiều năm 2021 này là sản phẩm nghiên cứu chung của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Bộ LĐTBXH, Ủy ban Dân tộc UBDT, Tổng cục Thống kê TCTK và Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam UNDP Việt Nam, được đồng tài trợ bởi Chương trình DFAT/GREAT và do Trung tâm Phân tích và Dự báo, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam TTPTDB, Viện HLKHXHVN thực hiện. Báo cáo cũng phân tích chi tiết về việc làm có năng suất, tình trạng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản cho tất cả mọi người – đây chính là những trụ cột quan trọng để duy trì các thành tựu giảm nghèo đa chiều của Việt Nam. Việc làm năng suất đã được cải thiện đáng kể trong mười năm qua ở Việt Nam. Trên cơ sở những phân tích này, báo cáo nêu ra các khuyến nghị nhằm duy trì tốc độ giảm nghèo nhanh ở mọi chiều cạnh và trên toàn lãnh thổ Việt Nam, với ba nhóm giải pháp i thúc đẩy tăng trưởng trên diện rộng và phát triển bao trùm thông qua việc làm hiệu quả; ii cải thiện hệ thống cung cấp dịch vụ xã hội có chất lượng; và iii tăng cường khả năng phục hồi thông qua mở rộng hệ thống bảo trợ xã hội, đặc biệt áp dụng công nghệ kỹ thuật số trong đăng ký và chi trả điện tử. Document Type Regions and Countries Sustainable Development Goals Topics
This page in Làm gì để xóa nghèo ở Việt Nam? Vài tháng trước, tôi có chuyến đi Lào Cai - một khu vực có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống ở miền núi phía Bắc Việt Nam- để giám sát một cuộc khảo sát thí điểm. Tôi đã tình cờ gặp một người đàn ông lớn tuổi - một người điển hình trong số rất nhiều người mà chúng tôi đã gặp – đó là một người nông dân chỉ vừa đủ sống, có trình độ học vấn tối thiểu chỉ biết nói tiếng dân tộc và hiếm khi ra khỏi bản làng. Người dân tộc thiểu số chiếm 15% dân số của Việt Nam nhưng chiếm tới 70% nhóm đối tượng cực nghèo được đo lường theo chuẩn cực nghèo quốc gia. Trong suốt hai thập kỷ tăng trưởng nhanh của Việt Nam, người dân tộc thiểu số ở quốc gia này đã có mức sống được cải thiện lên một cách toàn diện, song thành quả được hưởng của nhóm đối tượng này còn kém xa so với dân tộc chiếm đa số là người Kinh. Tại sao nghèo trong nhóm người dân tộc thiểu số lại dai dẳng như vậy? Đây là chủ đề của nhiều nghiên cứu, bao gồm nghiên cứu về phát triển và dân tộc thiểu số ở Việt Nam năm 2009 hay một chương trong Báo cáo Đánh giá Nghèo Việt Nam được chúng tôi thực hiện gần đây. Đây cũng là một mảng trong nghiên cứu phân tích mà nhóm của tôi hiện đang theo đuổi. Tôi đã đi sâu thêm để xem thực trạng của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam tương đồng như thế nào với thực trạng xảy ra đối với nhóm người bản địa ở một xã hội khác, tại Mê-hi-cô, nơi mà tôi đã sống một năm khi tôi làm luận văn. Tại cả hai quốc gia, các nhóm đối tượng này đều rất đa dạng, chiếm tỷ trọng như nhau trong tổng dân số của quốc gia đó và đều phải đối mặt với những thách thức tương tự như nhau. Thực ra, nghiên cứu so sánh toàn cầu tốt nhất do Gillette Hall và Harry Patrinos thực hiện và kết quả mà tôi đã xem xét về vấn đề này đều phát hiện ra những đặc điểm chung đáng kinh ngạc của các nhóm dân tộc thiểu số/bản địa trên khắp thế giới. Danh sách tôi đưa ra về các yếu tố tương quan là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ nghèo cao của người dân tộc thiểu số ở Việt Nam bao gồm Bị cách biệt về địa lý và hạn chế trong tiếp cận thị trường, Bị cô lập về mặt xã hội, yếu tố văn hóa và ngôn ngữ, Hạn chế trong tiếp cận đất đai có chất lượng, Tỷ lệ di cư khỏi nơi sinh sống thấp, và Trình độ học vấn thấp. Các yếu tố tương tự cũng sẽ thấy tại các nhóm người bản địa tại nhiều quốc gia khác. Tôi thấy lạc quan vì ít nhất mức độ quan trọng của một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trang nghèo đói của người dân tộc thiểu số đang ngày càng giảm đi. Các thế hệ trẻ em dân tộc thiểu số gần đây đã có trình độ học vấn tăng lên. Điều này có nghĩa là học tiếng Việt càng nhiều sẽ tạo cho họ khả năng kết nối thông qua thị trường và di cư trong tiến trình thịnh vượng diễn ra trên bình diện rộng hơn của quốc gia. Tôi đã nhìn thấy những dấu hiệu của hiện tượng này trong chuyến đi Lao Cai. Mặc dù người đàn ông lớn tuổi mà tôi đã mô tả ở trên có rất ít mối liên hệ với bên ngoài bản làng của mình, song các con ông đang ở độ tuổi 20 lại nói rất sõi tiếng Việt và đều đã đi làm ở xa. Tôi dự đoán rằng nếu sự chuyển đổi thế hệ này vẫn tiếp diễn và mạng lưới cho các nhóm dân tộc thiểu số được mở rộng, chúng ta sẽ chứng kiến ngày càng nhiều người rời bỏ đồng ruộng để tìm kiếm cơ hội ở nơi khác. Hai tuần trước, cùng với nhóm của mình, tôi đã đến bốn trường đại học ở Việt Nam để trình bày Báo cáo Đánh giá Nghèo Việt Nam. Các cuộc nói chuyện của chúng tôi đã tạo ra những thảo luận sống động và chúng tôi đã tổ chức lấy ý kiến của giảng viên và sinh viên tham gia thông qua tin nhắn điện thoại SMS về quan điểm của họ về cách tốt nhất để giảm nghèo đói cho nhóm dân tộc thiểu số. Đồng nghiệp của tôi, Nguyễn Thị Ngọc đã chạy kết quả lấy ý kiến trên máy tính của mình bằng một phần mềm nguồn mở FrontlineSMS. Câu trả lời phổ biến nhất đó là nâng cao tiếp cận thị trường và cung cấp giáo dục miễn phí, và có rất nhiều người lại đưa ra câu trả lời “khác” với cách thức do họ tự đề xuất. Khi nghĩ về nghèo đói của người dân tộc thiểu số/bản địa ở Việt Nam hoặc ở quốc gia của mình, bạn sẽ trả lời câu hỏi trưng cầu ý kiến này như thế nào? Vui lòng chia sẻ ý kiến của bạn với chúng tôi trong phần bình luận. Authors
Tại sao đất nước ta mãi nghèo? Tại sao Việt nam mãi mãi thua kém các đất nước khác kể cả các nước có cùng điều kiện khí hậu, địa lý trong khu vực như Singapore, Thailand, Malaysia, Indonesia, Philippines…? Thậm chí gần đây nhiều mặt cả Cambodia và Laos đều đã vượt Việt biết rất nhiều bạn sẽ đổ lỗi cho thể chế, đổ lỗi cho chính quyền, các bạn cho rằng thể chế, chính quyền đã kéo đất nước tụt hậu, nhưng các bạn cứ bình tĩnh, bởi trong suốt 4000 năm lịch sử, dù ở bất cứ thể chế nào, chính quyền nào, chưa bao giờ Việt Nam phát triển hơn các dân tộc khác. Đấy là một thực tế. Nếu bất cứ thể chế nào, bất chứ chính quyền nào, trong giai đoạn lịch sử nào Việt Nam cũng thua kém các dân tộc khác thì nguyên nhân hiển nhiên phải từ những điểm yếu cố hữu của dân tộc cần nhìn các di tích, công trình lịch sử từ thời cổ cũng đủ thấy chưa có công trình kiếm trúc nào do con người xây dựng nên của Việt Nam có thể sánh ngang các công trình cổ của các nước so sánh với các nước Âu, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, bởi nó quá cách biệt, chỉ cần so sánh với Thailand, Myanmar, Indonesia, Cambodia… Cũng dễ dàng nhận ra điều đó. Tại sao đất nước ta mãi nghèo…một bài viết hay nên đọc! Các công trình kiến trúc cổ lớn của Việt Nam chỉ có thành nhà Hồ, kinh thành Thăng Long chỉ còn lại dấu vết, kinh thành Huế. Các công trình ấy không thể so sánh được với chùa Vàng Golden Buddha, chùa Phật Ngọc, chùa Doi Suthep, cung điện Hoàng Gia của Thái Lan; Càng không thể sánh được với Chùa Vàng Yangon, chùa Vàng Shwezigon, đền Shwesandaw, đền Mahamuni Mandalay của Myanmar; Càng không thể sánh được với đền thờ Prambanan, quần thể đền thờ phật giáo Borobudar lớn nhất thế giới của Indonesia; Càng không thể sánh được với quần thể Angkor Thom, Angkor Wat của Cambodia Angkor Wat có diện tích ha ~ 401 km2. Đến cả dân tộc Chăm nay đã thành một phần của nước Việt. Công bằng mà nói về lịch sử chúng ta hơn dân tộc Laos. các bạn xem ảnh các công trình kiến trúc của Thailand, Myanmar, Indonesia, Cambodia trên google sẽ thấy rõ điều đó.Trong 4000 năm lịch sử, chúng ta luôn luôn kém, chưa bao giờ hơn, vậy thì làm gì có chuyện chúng ta tụt hậu, làm gì có ai đó kéo chúng ta tụt hậu. ĐÂU LÀ NGUYÊN NHÂN Nếu bất cứ thể chế nào, bất chứ chính quyền nào, trong giai đoạn lịch sử nào Việt Nam cũng thua kém các dân tộc khác thì nguyên nhân hiển nhiên phải từ những điểm yếu cố hữu của dân tộc tôi dân tộc Việt có 4 điểm yếu cố hữu sau đã cản trở sự phát triển 1 Lười biếng – Dễ hài lòng2 Tư duy nhỏ – Quanh quẩn xó nhà3 Áp đặt suy nghĩ của mình cho người khác4 Nền tảng triết học yếu lại không chuẩnTôi sẽ lần lượt phân tích chi tiết 4 điểm yếu cố hữu trên. 1 LƯỜI BIẾNG – DỄ HÀI LÒNG Cuối tháng 6, tôi vừa qua Singapore, từ sân bay Changi về trung tâm tôi quan sát thấy một sự thực là tất cả các công việc giản đơn như kéo xe đẩy, dọn vệ sinh, lau chùi nhà WC đều do những ông cụ, bà cụ cỡ 65-75 tuổi làm. Đi taxi thì hầu hết lái xe đều do các cụ ông tóc bạc tuổi từ 65-75 lái. Trong thành phố tất cả những người nhặt rác, dọn vệ sinh đều do các cụ bà tuổi từ 65-75 làm. Hiển nhiên là tất cả những việc nặng nhọc, công nghệ cao đều do những người trẻ tuổi và trung niên làm kể cả dưới 65 tuổi. Trong khi đó người Việt Nam ta 60 tuổi đã lên lão, nữ 55 tuổi, nam 60 tuổi đã về hưu và về hưu là không làm việc. Người Việt rất hứng thú “vui thú tuổi già”, “vui thú điền viên”, “sum vầy bên con cháu”…Không biết từ bao giờ quân đội có qui định độ tuổi về hưu cho quân nhân chuyên nghiệp vô cùng bất hợp lý như sau – Cấp Uý 50 tuổi nếu không lên được Thiếu tá– Thiếu tá 52 tuổi nếu không lên được Trung tá– Trung tá 54 tuổi nếu không lên được Thượng tá– Thượng tá 56 tuổi nếu không lđen được Đại tá Với qui định này, chúng ta có hàng vạn cán bộ về hưu tuổi mới chỉ 50, 52, 54, 56 tuổi không làm việc, không lao Nông thôn chiếm 70% dân số thì chỉ lao động vất vả mấy tháng mùa vụ còn phần lớn thời gian trong năm là không có việc làm và rất nhiều người coi đấy như một sự hiển nhiên. Ở Thành phố số thanh niên thất nghiệp, không việc làm, ngày ngày la cà quán sá, cà phê, chơi bài cả ngày. Họ than thở, oán trách đổ lỗi cho chính quyền mà ít người có ý chí lập nghiệp Star-up. Rất ít người nghĩ mình tự lập nghiệp, tự tạo ra công ăn việc làm cho chính mình và cho xã hội. Những người có việc làm ở công sở thì hoặc sáng đến muộn giờ, hoặc đến đúng giờ chỉ để điểm danh rồi đi ăn sáng, giữa giờ làm việc thì lại chốn ra quán cafe giải khát ngồi tán gẫu. Không ở đâu lại có nhiều quán cafe, giải khát, quán nước vỉa hè nhiều như Việt Nam mà quán nào cũng đông khách cả trong giờ làm việc. Lười lao động, thích ăn chơi thể hiện rất rõ trong câu ca daoTháng giêng là tháng ăn chơiTháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chèNhư vậy trong quá khứ ông cha ta một năm ít nhất đã chơi, không lao động 3 tháng. Ngày nay có khá hơn chút ít, các công nhân xây dựng, cầu đường, giao thông… vẫn giữ nếp là nghỉ hết tháng giêng. Có lẽ nghỉ cả tháng tết hiện chỉ có ở Việt Nam mà thôi. Trong xu thế tuổi thọ con người ngày càng tăng, hầu hết các nước đều nâng tuổi về hưu Mỹ 67 tuổi, Nhật 68 tuổi, Pháp 62 tuổi… thì Việt Nam vẫn giữ nữ 55, nam 60 từ cách đây 62 năm khi mà tuổi thọ thấp hơn hiện nay 10 tuổi. Khi có dự thảo nâng dần tuổi về hưu thì nhất loạt phản đối, họ gán ngay cho lãnh đạo tham quyền cố vị muốn ngồi ghế lâu nên sửa luật, họ bất chấp luật hưu trí qui định khi tuổi thọ của Việt Nam chỉ có trong khi hiện tại tuổi thọ đã tăng lên đến bất chấp xu thế tăng tuổi nghỉ hưu của cả thế giới. Một đất nước đã có nhiều lợi thế như Singapore HUB của khu vực mà lại chăm chỉ lao động, ai ai cũng làm việc, kể cả những người già 65-75 tuổi thì họ giầu có là điều hiển đất nước đã không có nhiều lợi thế mà lại lười lao động, thanh niên không chịu lập nghiệp, nằm chờ người khác tạo công ăn việc làm cho mình, giờ làm việc thì bớt xén giờ giấc, người còn sức lao động, chưa già đã muốn nghỉ “an nhàn tuổi già”, “xum vầy bên con cháu” thì mãi mãi nghèo cũng là chuyện không thể khác. Không chỉ lười lao động, người Việt còn lười học, lười suy nghĩ, lười vận Facebook hoặc trên các diễn đàn không ít bạn “bàn phím” nhanh hơn “mắt”, chưa kịp đọc hết nội dung, chưa kịp hiểu hết ý người khác đã vội vã comment, vội vã bình luận, thậm chí chửi bới. Cuộc sống là của mình, hạnh phúc là của mình mà rất nhiều người luôn trông chờ vào “nhà nước” vào “chính quyền”. Trừ các học sinh trường chuyên, đa số những trường khác, học sinh rất chi là lười, đặc biệt là rất lười đọc sách, rất lười tự học. Cứ nhìn số lượng các hiệu sách, số lượng độc giả đến hiệu sách thì sẽ hiểu người Việt lười đọc sách thế nào. Người Việt rất lười vận động, họ rất lười đi bộ, chỉ cần khoảng cách 100 mét họ cũng đi xe máy thay vì đi bộ chúng ta đều biết ở nước ngoài đi bộ 500 m – 1 km là chuyện bình thường. Không chịu vận động làm cho người thiếu sức dẻo dai, ảnh hưởng đến năng xuất lao động. Đi xe máy khi không cần thiết sẽ làm tăng ùn tắc giao thông, tăng ô nhiễm môi trường, tăng tai nạm giao thông, lãng phí tiền xăng. 2 TƯ DUY NHỎ – QUANH QUẨN XÓ NHÀ Tư duy nhỏ bé của người Việt thể hiện rất rõ trong giao thông thời trước khi Pháp xâm lược Việt Nam 1858 giao thông của nước Việt chỉ là những con đường nhỏ cho người đi bộ, ngựa, trâu, bò và xe 2 bánh người kéo xe kéo chở người, xe chở hàng hoá. Không có con đường nào rộng đủ cho xe 4 bánh ngựa kéo hay ô tô có thể đi lại được Các đường quốc lộ, tỉnh lộ, liên huyện, đường xe điện, đường tàu hoả đều do người Pháp xây dựng sau khi vào Việt Nam. Giao thông toàn đường nhỏ cho người và xe 2 bánh rất lợi hại cho phòng thủ đất nước, chống xâm lược. Chỉ cần rút lui, vườn không nhà trống rồi tuyệt đường tiếp vận là quân xâm lược tự thua và rút về nước. Đọc lịch sử Việt Nam thì thấy hầu hết các triều đại, khi ở thế yếu các tướng lĩnh, vua, chúa Việt Nam đều dùng chiến thuật vườn không nhà chống này để chống xâm lược phương Bắc và đều giành chiến thắng. Thế nhưng để phát triển kinh tế, giao thương thì đường giao thông nhỏ bé là lực cản, là hạn chế lớn nhất. Con người và hàng hoá không được lưu thông, kinh tế không thể phát triển. Với đường giao thông nhỏ như vậy thì Việt nam không có công trình nào to cũng dễ hiểu. Vì tư duy nhỏ bé nên biểu tượng của Hà Nội là chùa một cột, một ngôi chùa có lẽ bé nhất thế giới. Trong công viên “Thế giới thu nhỏ” ở Thâm Quyến, mỗi quốc gia người ta xây dựng một công trình biểu tượng Pháp thì có tháp Epphen, Mỹ thì có tượng nữ thần tự do, Italia thì có đấu trường La Mã…. Mỗi công trình người ta thu nhỏ 1/25 so với kích thước thật, riêng chùa một cột vì quá bé nên người ta thu nhỏ tỷ lệ 1/8. Chúng tôi đi thăm thì tất cả các biểu tượng của các nước khác đều có thể đi vào bên trong, đi lại được, chỉ có chùa một cột là đứng bên cạnh và nóc chùa chỉ đến ngang vai. Vừa đứng bên cạnh biểu tượng chùa một cột vừa nhìn biểu tượng của các quốc gia khác mà sống mũi tôi cứ cay cay. Tư duy nhỏ bé còn thể hiện trong việc ruộng đất được chia nhỏ theo từng thửa, thường là 1 sào 360 m2, với thuở ruộng bé như vậy thì chỉ có thể làm thủ công với hiệu xuất thấp, không thể tổ chức sản xuất lớn, không thể cơ giới hoá. Khoán 100 năm 1981 và khoán 10 năm 1988 đã thiết lập nên kinh tế hộ gia đình, người nông dân làm chủ mảnh đất của mình, đã tạo ra cú huých, đột phát đưa nước ta từ chỗ thiếu lương thực thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới. Nhưng như cái lò so bị nén được giải phóng đã bung hết cỡ, những năm gần đây nông nghiệp không còn lực phát triển nữa, bởi bản chất kinh tế hộ gia đình vẫn là lối tư duy nhỏ bé. Phải làm lớn, tích tụ ruộng đất lớn để sản xuất với qui mô lớn, đưa máy móc, tự động hoá vào, đặc biệt phải đẩy mạnh nông nghiệp công nghệ cao theo công nghệ của Nhật Bản, Israel. Chỉ có như vậy Nông nghiệp và Nông thôn Việt Nam mới có bước phát triển mạnh mẽ, mới có năng xuất và hiệu suất cao. Tư duy nhỏ bé còn thể hiện trong việc tổ chức buôn bán thông qua chợ cóc, buôn bán vỉa hè. Vì chợ cóc buôn bán vỉa hè nên xe máy là phương tiện giao thông thích hợp nhất vì có thể dừng bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào. Khi xe máy ít thì đúng là rất thuận tiện, nhưng bây giờ khi Hà Nội có 5 triệu xe và Hồ Chí Minh có 8 triệu xe, nạn kẹt xe thường xuyên xẩy ra thì hiệu quả của cả xã hội rất thấp, mỗi ngày người dân tốn thêm trung bình 45 phút – 75 phút cho việc đi đến công sở và trở về nhà. Bây giờ chúng ta mới bắt đầu nghĩ đến đường sắt đô thị, metro thì ít nhất phải 10-15 năm nữa Hà Nội, Hồ Chí Minh mới có hệ thống đường sắt đô thị, metro. Tư duy nhỏ bé còn thể hiện trong các doanh nghiệp. Ai cũng biết doanh nghiệp nhỏ thì năng động hơn, nhưng doanh nghiệp lớn mới có tiềm lực, có thể đảm nhận những công trình lớn, mới có thể cạnh tranh quốc tế. Rất nhiều doanh nghiệp Việt nam sau một vài năm thành lập, phát triển thành công một tý, lớn một tý là tách làm hai, làm ba, kể cả những công ty do 2-3 người bạn thân cùng góp vốn. Nếu chúng ta không có những công ty lớn thì không thể cạnh tranh quốc tế, không thể làm được những việc lớn. Nếu chúng ta không có tư duy lớn thì chúng ta chỉ làm những việc bé. Đất nước mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới đã 22 năm mà hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chỉ làm thầu phụ ngay trên chính sân nhà của mình, nếu có làm tổng thầu thì cũng chỉ là những dự án vốn của nhà nước, của chính phủ, cứ dự án đấu thầu quốc tế sòng phẳng là hầu hết doanh nghiệp Việt Nam lại trở lại thân phận làm thuê, làm thầu phụ ngay. Hội nhập kinh tế thế giới là tất yếu, nhưng sau 22 năm hội nhập, đáng buồn là chúng ta đã mất đi nhiều thương hiệu Việt nổi tiếng một thời vào tay các hãng nước ngoài chỉ vì các doanh nhân Việt không dám nghĩ lớn, không dám đương đầu cạnh tranh sòng phẳng với các hãng nước ngoài, dù là trên sân nhà của mình. Các thương hiệu Việt bị các hãng nước ngoài nuốt chửng, mất luôn tên tuổi có thể kể đến kem đánh răng Dạ Lan bị Colgate Palmolive nuốt, kem đánh răng PS về tay Unilever, bia Huế về tay Carlsberg Đan Mạch, Tribeco về tay Uni-President, Phở 24 và Highland Coffe về tay Jollibee Ford… Một điểm yếu nữa của người Việt là không có máu chinh phục, không có máu kinh doanh quốc tế, không có khát vọng toàn cầu hoá, trong khi Tây vào tận nước mình, kinh doanh, thôn tính, kiếm tiền của mình, thì các Doanh nghiệp Việt chỉ quanh quẩn trong đất nước mình, thậm chí thành phố mình, tỉnh mình. Năm 1998 FPT quyết định chiến lược Toàn cầu hoá Xuất khẩu phần mềm, anh Trương Gia Bình đã gặp rất nhiều lực cản cả từ bên trong lẫn bên ngoài. Rất nhiều lãnh đạo FPT sợ thất bại, sợ mất tiền, để thể hiện quyết tâm anh Trương Gia Bình đã phải ra nghị quyết đầu tư 1 triệu USD cho xuất khẩu phần mềm một con số gấp lần toàn bộ Doanh thu phần mềm trong nước của FPT năm 1998.Chưa đủ, anh Trương Gia Bình còn thể hiện quyết tâm bằng khẩu hiệu “dù phải đốt cả dãy Trường Sơn cũng phải xuất cho được phần mềm”. Nếu không có những quyết tâm cao độ đó thì hôm nay FPT không có người làm xuất khẩu phần mềm với doanh thu 300 triệu USD năm 2016. Đến giai đoạn xuất khẩu lần thứ 2 của FPT, kiếm được hợp đồng từ các nước đang phát triển đã khó nhưng để có chuyên gia sẵn sàng đi nước ngoài triển khai hợp đồng cũng khó không kém, chúng tôi đã phải xây dựng chính sách ưu đãi cho Toàn cầu hoá như tiêu chuẩn ăn, ở, đi lại, công tác phí, phụ cấp toàn cầu hoá, 3 tháng về thăm nhà một lần thế mà cũng không ít cán bộ tự nguyện đi Toàn cầu hoá. Chưa hết chúng tôi còn làm qui đổi doanh số Toàn cầu hoá được nhân hệ số 4, tức cứ 1 triệu USD doanh số Toàn cầu hoá bằng 4 triệu USD doanh số ở thị trường Việt Nam. Hiện tại tuy Việt Nam đã đạt kim ngạch xuất khẩu 162 tỷ USD năm 2015 nhưng hầu hết là xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản, thuỷ hải sản, nông sản, thực phẩm và hàng gia công chứ rất ít từ dịch vụ, từ công nghệ, tức giá trị chất xám của người Việt còn chiếm tỷ lệ rất tinh thần thì số doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài không tính Cambodia và Laos chinh chiến, hoạt động thương mại, sản xuất, kinh doanh tại các quốc gia khác chỉ đếm trên đầu ngón tay, nếu phải kể tên thì cũng chỉ có các tên sau Vietel, FPT, Hoàng Anh – Gia Lai…Chúng ta không kiếm được tiền của các nước khác mà lại để doanh nghiệp các nước khác kiếm tiền của mình, trên sân nhà mình thì chúng ta nghèo hơn người ta là đúng thôi. 3 ÁP ĐẶT SUY NGHĨ CỦA MÌNH CHO NGƯỜI KHÁC Cuối năm 1990 tôi sang Pháp 8 tháng nên có gặp gỡ nhiều anh chị Việt Kiều Pháp và Đức. Tôi có được đọc một bài trả lời phỏng vấn của một đạo diễn nổi tiếng trên tạp chí Quê Hương, sau khi được các anh chị Việt Kiều mời anh sang Pháp, Đức, Mỹ 3 tháng làm phim về Việt kiều, vị đạo diễn đã trả lời đại ý như sau – Hỏi Anh có cảm giác gì sau 3 tháng sang Pháp, Đức, Mỹ làm phim và tiếp xúc với nhiều Việt Kiều thành đạt?– Trả lời Tôi thất vọng về dân tộc Việt.– Hỏi Anh cũng là người Việt, sao anh lại nói vậy. Xem thêm 5 Mẫu Giày Búp Bê Đẹp Và Cuốn Hút Cho Nàng Tự Tin Sải Bước, 42 Giầy Búp Bê Ý Tưởng – Trả lời Trước khi sang đây tôi tưởng Việt nam nghèo vì sai lầm về thể chế về chế độ chính trị, nhưng sau khi sang đây tiếp xúc với nhiều anh, chị, tôi thấy các anh chị tuy sống ở Mỹ, Pháp, Đức được coi là những nước tự do, dân chủ hàng đầu thế mà các anh chị vẫn có tật là áp đặt suy nghĩ của mình cho người khác, các anh chị không chấp nhận người không cùng chính kiến với mình, cùng là chống cộng, nhưng những người chủ trương bạo động và những người chủ trương bất bạo động cũng coi nhau như kẻ thù. Nếu chỉ là sai lầm về thể chế, chế độ chính trị thì chúng ta dễ sửa, còn áp đặt suy nghĩ của mình cho người khác, không chấp nhận người khác chính kiến của mình là bản tính của dân tộc Việt thì rất khó sửa. Sau khi đọc bài trả lời phỏng vấn ấy, tôi suy nghĩ nhiều và thấy ông đạo diễn nói có cơ sở. Hoá ra áp đặt suy nghĩ của mình cho người khác, không chấp nhận người khác chính kiến của mình là bản tính xấu của người Việt. Ngay từ thói quen ăn uống, người Việt đã áp đặt nhau Người Việt ăn món gì thấy ngon thì luôn nghĩ người khác phải ăn thế mới ngon, mình ăn hành, ăn tỏi, ăn mắm tôm, ăn thịt chó thì người khác cũng phải ăn, “không ăn phí nửa đời người”, “ăn tốt cho sức khỏe”, “ăn ngon lắm”… họ đâu có biết người không ăn được thì hoặc cơ thể họ không tiếp nhận hoặc với họ ăn như một cực hình. Trong nhà hàng hay mời khách đến nhà ăn, người Việt không có thói quen hỏi người khác kiêng cái gì hoặc người Việt quan niệm “Nam vô tửu như cờ vô phong”, trên bàn tiệc bắt tất cả đều phải uống rượu, đều phải 100%, nếu không 100% là không thật lòng, không cần biết người ta có uống được không, có đang điều trị bệnh gì không. Trên Facebook chúng ta thường xuyên thấy những người tự nhận là đấu tranh cho dân chủ, thế nhưng bất cứ ai nói khác với họ là họ qui ngay là DLV, là ăn lương của nhà nước, là ngu… Đến cả những người đang giương cờ đấu tranh cho dân chủ mà cũng thế thì hết cách nước đã thống nhất 41 năm thế mà vẫn chưa thể hoà giải giữa những người hai bên chiến tuyến, một bên thì vẫn chưa bỏ được mối thù, cứ có dịp là biểu tình chống cộng, một bên thì vẫn chưa bỏ được định kiến. Một bên thì bảo anh thắng trận anh phải quảng đại, anh phải chìa tay ra chứ, một bên thì bảo tôi đã chìa tay ra rồi mà anh có bắt đâu. Hệ quả của việc áp đặt suy nghĩ của mình cho người khác, không chấp nhận người khác chính kiến cùa mình là vô cùng lớn Đầu tiên là anh thiếu kiềm chế, anh hung hăng nên rất khó tìm lời giải tối ưu khi đất nước đứng trước nguy cơ bị xâm lược, nguy cơ chiến tranh, dẫn đến việc chúng ta không giữ được hoà bình, xẩy ra chiến tranh nhiều. Đã bao giờ bạn tự hỏi tại sao trong lịch sử 4000 năm Việt Nam lại xẩy ra chiến tranh nhiều đến thế, có bạn nói tại ông bạn hàng xóm xấu tính, thế thì Sơn Tinh đánh nhau với Thủy Tinh, Đinh Bộ Lĩnh loạn 12 xứ quân, Trịnh Nguyễn phân tranh 200 năm là tại ai?. Đã bao giờ bạn tự hỏi tại sao trong lịch sử Thái Lan và các nước xung quanh ít chiến tranh hơn Việt Nam? Tiếp theo là chúng ta thiếu tính kế thừa, ai có quyền cũng muốn không giống người tiềm nhiệm, muốn ghi dấu ấn của mình thành ra các công trình cổ bị đập đi, làm lại. Trong khoa học, công nghệ chúng ta không có thói quen làm tiếp, tiếp quản thành quả của người khác mà thích làm lại từ đầu. Tất cả dẫn đến lãng phí của cải chung của cả xã hội và giá thành sản phẩm cao và chậm nhịp độ phát triển. Một hậu quả xấu nữa là hoặc là tổ chức sẽ thiếu tính sáng tạo vì không có người phản biện hoặc là tổ chức sẽ thiếu sự đoàn kết và không phát huy hết các tài năng cá nhân vì những người khác quan điểm hoặc sẽ phải dời bỏ hoặc ở lại thì thụ động, không dám thể hiện hết mình. 4 NỀN TẢNG TRIẾT HỌC YẾU LẠI KHÔNG CHUẨN Triết học của Việt Nam gốc là Nho Giáo sau này chuyển sang Khổng Giáo, Khổng Giáo độc tôn ở Việt nam cho tới thế kỷ 20. Cuối thế kỷ 16 khi các nhà truyền giáo Châu Âu vào giảng đạo, Thiên Chúa Giáo bắt đầu hình thành và phát triển và triết học Khổng Giáo dần bị lai tạp bởi Thiên Chúa Giáo. Với sự thay đổi và phát triển như vậy triết học của Việt Nam là lai tạp, pha trộn và ảnh hưởng của nước ngoài Trung Quốc và phương Tây nên nền tảng không vững chắc, cộng thêm Việt Nam không có triết gia nên các hệ thống lý luận và giá trị vừa yếu vừa không chuẩn. Trên nền tảng triết lý Khổng Giáo lai tạp ấy rất nhiều giá trị, nhiều vai trò của các thành phần trong xã hội không chuẩn, thậm chí bị sai lệch, từ đó dẫn đến đảo lộn các qui tắc hành xử, ứng xử trong xã hội cũng như trong phát triển kinh tế. Điểm sai lệch thứ nhất nghiêm trọng nhất là đánh giá thấp vai trò của doanh nhân, doanh nghiệp và thương mại. Không những đánh giá thấp mà còn bị coi thường dậy học và chữa bệnh thì được gọi là “thầy” “thầy giáo”, “thầy thuốc” điều này không sai, còn buôn bán, thương mại thì gọi là “con” là “bọn” “phường con buôn”, “bọn con buôn”. Trong khi doanh nghiệp bao gồm cả nhà máy, xí nghiệp sản xuất, ngân hàng là trung tâm của xã hội, tạo công ăn việc làm cho 70% lao động trong xã hội, đóng thuế nuôi bộ máy chính phủ, duy trì an ninh quốc phòng, đầu tư cho giao thông, hạ tầng xã hội, đầu tư cho giáo dục, đầu tư cho y tế, chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ người nghèo và các chính sách xã hội… Đã bước vào thế kỷ 21, hội nhập quốc tế đã 22 năm, thời đại Internet, thời đại toàn cầu hoá rồi mà hiện tại rất nhiều học giả, rất nhiều người có tri thức vẫn có luận điểm chia những người kinh doanh Việt Nam ra 3 loại Doanh nhân, thương nhân và con buôn trong khi thế giới chỉ dùng một từ duy nhất là Businessman. Tệ hại hơn có người còn kết luận hiện thời Việt Nam chưa có doanh nhân. Một thành phần chính, lực lượng chính, hoạt động trung tâm của việc tạo ra của cải cho xã hội, của phát triển kinh tế, làm giầu cho cá nhân, tập thể và đất nước lại bị đánh giá thấp nhất, bị coi thường, bị miệt thị thì mãi nghèo cũng là chuyện tất yếu, không thể khác. Người Việt chúng ta hiểu hoàn toàn sai về thương mại và doanh nhân, họ coi buôn bán, thương mại là lừa gạt, là bất nhân. Thực chất thương mại và doanh nhân buộc người ta phải đi lại, gặp gỡ, giao lưu, buộc người ta phải thuyết phục đối tác, khách hàng; muốn vậy buộc người ta phải tìm hiểu tâm lý, thói quen, nhu cầu của khách hàng; muốn vậy buộc người ta phải đặt mình vào địa vị của khách hàng để hiểu tâm lý, thói quen, nhu cầu, để khám phá xem khách hàng muốn gì; muốn vậy buộc người ta phải nghiên cứu, áp dụng khoa học và công nghệ để sản xuất ra các sản phẩm tốt nhất, phù hợp nhất; Tiếp theo người ta phải tìm cách chinh phục khách hàng, thuyết phục khách hàng đồng ý mua sản phẩm, dịch vụ của mình thay vì mua sản phẩm dịch vụ của nhà cung cấp khác, của quốc gia mình mà không phải quốc gia khác. Muốn làm được điều đó doanh nhân phải là một người lịch sự, chân thành, lễ độ, nghiêm túc, hiểu biết, giữ chữ tín, đáng tin cậy, đáng yêu và có trách nhiệm với xã hội, đôi khi là cả lòng dũng cảm, đi tiên phong. Chân thành, tin cậy, đáng yêu, có trách nhiệm với xã hội là bốn đức tính đáng quí nhất của một doanh nhân, thiếu bốn đức tính đó thì không thể là một doanh nhân lớn, không thể thành công trong thương mại, nếu có thành công thì chỉ là thành công nhỏ, tạm bợ mà thôi. Một đất nước, một nền văn hoá, loại bỏ thương mại, thiếu vắng thương mại sẽ dần biến đất nước, biến xã hội thành một đất nước, một xã hội không văn minh, thiếu lịch sự, đôi khi lỗ mãng. Chính vì bị đánh giá thấp, bị coi thường nên doanh nghiệp và nghề buôn thương mại không được phát triển ở Việt nam. Mà thương mại và doanh nghiệp không được phát triển thì tất yếu đất nước sẽ nghèo. Điểm sai lệch thứ hai cũng nghiêm trọng là đánh giá sai lệch về tiền bạc. Không chỉ sai lệch mà chúng ta còn có thái độ bệnh hoạn và tội lỗi đối với tiền bạc. Người Việt chúng ta có hai thái cực trái ngược nhau đầy mâu thuẫn về tiền bạc. Thái cực thứ nhất là coi khinh đồng tiền “Tôi coi khinh đồng tiền”, “tiền bạc lắm”; đã coi khinh đồng tiền, coi tiền là bạc bẽo thì hiển nhiên sẽ không bao giờ kiếm được nhiều tiền, không bao giờ giầu có. Thái cực thứ hai là tuyệt đối hoá đồng tiền “Có tiền mua tiên cũng được”, “tiền là vạn năng”, “tiền là tất cả”; đã tuyệt đối hoá đồng tiền họ sẽ kiếm tiền bằng mọi giá, không quan tâm đến chữ tín, không quan tâm đến nhân cách, bất chấp hậu quả. Với triết lý vừa tuyệt đối hoá vừa coi khinh đồng tiền dẫn đến một bộ phận người Việt Nam không dám công khai kiếm tiền, coi kiếm tiền như một sự vẩn đục, họ cố làm ra vẻ coi khinh đồng tiền, coi khinh sự giầu có và hãnh diện với sự thanh bần của mình. Mặt khác họ cũng hiểu quyền lực của đồng tiền, họ cũng cần tiền và muốn có nhiều tiền thành thử họ kiếm tiền và làm giầu một cách giấu giếm. Các xã hội phát triển, văn minh họ đánh giá đúng giá trị đồng tiền, họ không tuyệt đối hoá, họ không coi khinh đồng tiền, họ coi đồng tiền là phương tiện trao đổi hàng hoá, đồng tiền là thước đo giá trị lao động, đồng tiền giúp họ có cuộc sống tốt hơn, đào tạo nâng cao trình độ, chăm sóc sức khoẻ tốt hơn, báo hiếu cha mẹ, giải trí, du lịch và làm công tác xã hội. Điểm sai lệch thứ 3 cũng nghiêm trọng là đánh giá sai các giá trị Người Việt chúng ta quan niệm lệch lạc về người giỏi. Thời phong kiến là giỏi làm thơ xuất khẩu thành thơ, giỏi đối đáp câu đối, trong khi đó xã hội cần bao nhiêu người tài trong các lĩnh vực khác nữa khoa học tự nhiên và kinh tế – thương mại là hai lĩnh lực quan trọng nhất giúp kinh tế phát triển thì thời phong kiến không được quan tâm, không được đánh giá là người tài. Nửa cuối thế kỷ 20 ở miền Bắc lại quan niệm người giỏi là giỏi các môn tự nhiên, đặc biệt là môn Toán, tất cả những học sinh giỏi nhất lên đại học đều học Toán, Vật Lý, Cơ học.. Người Việt chúng ta không đánh giá cao, không ca ngợi những nguyên lý cơ bản về hệ thống, bài bản mà thường đánh giá cao sự lanh trí xử lý theo tình huống, khôn vặt kiểu Trạng Quỳnh “Dê đực chửa”, “Hâm nước mắm”, “nhúng 10 đầu ngón tay vẽ giun”, “đố vua ị mà cấm đái”… Với tư duy ấy chúng ta chỉ có thể làm tốt những hệ thống nhỏ, đơn lẻ, khi hệ thống lớn hơn, cần nhân rộng, cần phát triển lâu dài thì sự lanh trí, khôn vặt lại chính là lực cản của sự phát triển. Người Việt chúng ta rất coi trọng bằng cấp, coi trọng đến mức cứ thi đỗ trạng nguyên, thám hoa, bảng nhãn thì bổ làm quan. Trong khi đó thám hoa, bảng nhãn cũng chỉ giỏi văn thơ, làm sao mà lãnh đạo một tổng, một huyện, một tỉnh, làm sao lãnh đạo phát triển kinh tế. Đồng hành với coi trọng bằng cấp là coi nhẹ thực hành ngày trước đi học chỉ dậy văn thơ, câu đối, ngày nay chỉ dậy lý thuyết mà ít dậy thực hành. Từ hôm tôi post stt đầu tiên về chủ đề VÌ SAO ĐẤT NƯỚC TA MÃI NGHÈO, chỉ ra nhiều điểm yếu cố hữu của người Việt, rất nhiều bạn đồng quan điểm, rất nhiều bạn tự thấy bản thân sẽ tự thay đổi để hạn chế điểm yếu, một số bạn không chia sẻ, đặc biệt tôi nhận được vài ý kiến của một số bạn lo ngại “anh viết về điểm yếu của người Việt làm cho bọn em và một số người bi quan và nản”.Tuy chỉ ra 4 điểm yếu cố hữu của người Việt, nhưng tôi không bi quan, tôi vẫn rất lạc quan, tôi luôn tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc Việt, của đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta. Tôi tin tưởng sâu sắc rằng NHẤT ĐỊNH ĐẤT NƯỚC TA SẼ GIÀU, nhất định chúng ta sẽ đuổi kịp Thailand, nhất định chúng ta sẽ vượt Philippines trong một thời gian không xa nữa. NGƯỜI VIỆT CHÚNG TA CÓ RẤT NHIỀU ƯU ĐIỂM VƯỢT TRỘI TỐC ĐỘ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 15 NĂM QUA 2000-2015 CỦA VIỆT NAM NHANH NHẤT ASEAN VIỆT NAM ĐÃ CÓ NHỮNG ĐIỂM SÁNG VƯỢT CÁC NƯỚC ASEAN TRONG KỶ NGUYÊN THẾ GIỚI SỐ, VIỆT NAM CÓ NHIỀU LỢI THẾ NHẬN RA ĐIỂM YẾU, CHÚNG TA CÙNG KHẮC PHỤCTôi sẽ phân tích lần lược 5 cơ sở VIỆT CHÚNG TA CÓ RẤT NHIỀU ƯU ĐIỂM VƯỢT TRỘINói về ưu điểm của người Việt sẽ có nhiều nhận định, nhiều ý kiến khác nhau, cá nhân tôi cho rằng người Việt có một số ưu điểm có tác động lớn đến phát triển kinh tế đất nước, đó làNhững ưu điểm trên, nếu biết phát huy từng cá nhân, từng doanh nhân tự phát huy, từng doanh nghiệp, từng tổ chức, lãnh đạo quốc gia biết khơi dậy, biết tổ chức, biết khai thác thì nó sẽ tạo thành sức mạnh, tạo thành năng lực cạnh tranh quốc tế, giúp nâng cao năng suất lao động, giúp sáng tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao từ đó sẽ làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước cao hơn nhiều so với giai đoạn thời gia qua chúng ta có nhiều bài báo nói Việt Nam càng ngày càng tụt hậu, khoảng cách giữa Việt Nam với các nước Asean ngày càng xa, nhưng với số liệu thống kê của tổ chức tiền tệ quốc tế IMF thì lại cho kết quả hoàn toàn ngược thống kê của tổ chức tiền tệ quốc tế IMF thì trong 15 năm qua 2000-2015 tốc độ phát triển kinh tế, tăng trưởng GDP của Việt Nam cao nhất khu vực Asean, khoảng cách giữa Việt Nam với các nước đã được rút ngắn đáng kể có số liệu của IMF xác nhận, các bạn xem ảnh ở kèm sẽ có các số liệu chi tiết.Theo bảng thống kê này thì tốc độ tăng trưởng GDP đầu người normal per capita giai đoạn 2010-2015 các nước ASEAN thứ tự như sau1 Việt Nam tăng trưởng từ lên Laos tăng trưởng từ lên Cambodia tăng trưởng từ 782$ lên Philippines tăng trưởng từ lên Myanmar tăng trưởng từ 998$ lên Singapore tăng trưởng từ lên Malaysia tăng trưởng từ lên Indonesia tăng trưởng từ lên Thailand tăng trưởng từ lên
Để biết được trong quá khứ, một quốc gia ở châu Á, châu Phi hay châu Mỹ Latinh đã từng giàu có hay phát triển văn hóa rực rỡ như thế nào, hãy nhìn vào những gì họ đã làm ra, vốn đã bị các nước đế quốc thực dân cướp đi. Hãy ghé qua các bảo tàng quốc gia của Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, hay Tây Ban Nha, có thể dễ dàng nhận ra vô số các bảo vật to có, nhỏ có, đến từ Ai Cập, Trung Quốc, Nam Mỹ, Mỏi mắt tìm cũng khó có thể thấy được một vật dụng dù nho nhỏ có dấu vết của người Việt. Trừ trống đồng Đông Sơn – thời kỳ xa xưa, không có trong sử sách, thì hình như người Việt Nam chúng ta chưa hề làm được bất cứ một sản phẩm nào ra tấm, ra món cả. Quá khứ – đâu chỉ Việt Nam nghèo Có rất nhiều nguyên nhân được đưa ra để giải thích cho cái sự nghèo của nước Việt. Trong đó “văn minh lúa nước” hay văn hóa “làng xã” thường được đưa ra như là một nguyên nhân gốc rễ, luôn được đưa ra để giải thích cho bất kỳ bất cập hay yếu kém của dân tộc ta trong quá khứ. Công bằng mà nói, trước khi xảy ra cách mạng công nghiệp và sự có mặt của người phương Tây với đầu máy hơi nước thì không chỉ riêng có Việt Nam mà cả châu Á này đều chủ yếu sống dựa vào nông nghiệp. Đặc trưng của nghề này là phụ thuộc vào thiên nhiên, bấp bênh và hầu như không thay đổi phương thức sản xuất trong nhiều thế kỷ. Trong bối cảnh đó có lẽ trừ nhà cầm quyền và giới quý tộc ra, dân chúng ở đâu cũng nghèo khó như nhau cả. Trong cái bối cảnh cùng nghèo và lạc hậu ấy, cần khách quan mà nói, người Việt Nam không những được coi là kiên cường sống vững trước các mối đe dọa từ phương Bắc, mà thực tế, đã không ít hơn một lần vươn lên đứng đầu khu vực. Trong ánh hào quang ấy không thể không nhắc tới thời Hồng Đức của Hoàng đế Lê Thánh Tông 1442 – 1497 và thời Đai Nam rực rỡ của Vua Minh Mạng 1791 – 1841. Sức mạnh của các thời kỳ này chủ yếu được hình thành nhờ khả năng tập hợp đầy đủ và phát huy hiệu quả các nguồn lực trên cả nước. Đây chính là lúc người Việt chúng ta ít chia rẽ nhất. Hơn 7 triệu tấn gạo và vài ba triệu tấn cà phê cùng một ít hồ tiêu xuất khẩu, tạm thời vẫn chỉ giúp chúng ta đủ ăn chứ chưa và có thể nói là làm Việt Nam khả dĩ trở nên giàu có! Ảnh minh họa Chính cái nghèo về vật chất đã không cho phép cha ông chúng ta duy trì được lợi thế quân sự lâu dài sau mỗi lần động binh bên ngoài lãnh thổ, và vì cái nghèo mà người Việt phải chấp nhận bỏ đi những cơ hội vốn có thể giúp dân tộc này thay đổi về chất một khi lượng đủ để tiến lên một tầm cao mới, với cơ cấu đa dạng và phức tạp hơn của nền kinh tế cùng hệ thống quản trị. Trừ Nhật Bản, do không bị phương Tây đô hộ và đã tận dụng cơ hội để canh tân đất nước để trở nên hùng mạnh ngay từ đầu TK 20, các nước Á châu còn lại, kể cả Trung Quốc đều nghèo khó và tăm tối trước khi thế chiến thứ II kết thúc vào năm 1945. Hiện tại – chỉ mỗi chúng ta nghèo Như vậy việc đem quá khứ nghèo túng của ông cha ra để đổ lỗi cho cái nghèo hiện tại có vẻ không được thuyết phục cho lắm. Thay vào đó, chúng ta hãy nhìn thẳng vào bản chất của vấn đề và tìm hiểu xem tại sao Việt Nam vẫn chưa thể thoát nghèo! Chiến tranh liên miên đúng là đã khiến dân tộc chúng ta mất đi nhiều cơ hội để phát triển, nhưng đó không thể là lý do muôn thuở khi nó đã đi qua cả vài thế hệ. Cho dù đã có được những thành tựu ấn tượng trong lĩnh vực nông nghiệp trong vài chục năm trở lại đây, nhưng hơn 7 triệu tấn gạo và vài ba triệu tấn cà phê cùng một ít hồ tiêu xuất khẩu, tạm thời vẫn chỉ giúp chúng ta đủ ăn chứ chưa và có thể nói là làm Việt Nam khả dĩ trở nên giàu có! Gần 300 năm trước, Lê Quý Đôn đã nhìn ra được các thành tố cốt lõi của một nền kinh tế – khi ông nói “phi công bất phú, phi thương bất hoạt”. Không rõ có phải bởi vì những gì ông nói “sâu sắc” quá hay không mà suốt 300 năm sau đó, người Việt vẫn một mực trung thành với nghề nông. Lần lượt các triều đại sau này đều lấy sự ổn định kể cả trong nghèo túng làm trọng mà phớt lờ thương mại. Có phải vì sợ dân chúng “hoạt bát” quá! Khác với phương Tây, chúng ta thiếu hẳn một nền công nghiệp nền tảng. Khi hội nhập trở lại, những gì Việt Nam biết về công nghiệp có thể nói là một con số không tròn trĩnh. Đầu tư trong lĩnh vực này vừa tốn kém, vừa vất vả lại vừa đọng vốn, nhưng lợi nhuận lại thấp và rất lâu giàu. Sự hoạt bát – vốn được coi là hạn chế ở những nền văn minh lúa nước lại không thiếu trong những con người Việt thời đổi mới. Không rõ vô tình hay hữu ý, hoặc có lẽ là do khát vọng giàu sang lớn quá, muốn đi tắt, đón đầu, nên người ta đã mạnh dạn thay từ “hoạt” bằng từ “phú” trong câu nói của Lê Quý Đôn. Thay vì đầu tư máy móc, thiết bị, công nghệ để sản xuất ra các sản phẩm - vốn đa phần đã có mặt khắp nơi trên thế giới do các nước phát triển hơn sản xuất, người nhà mình đã chọn cách dễ hơn, đem lại lợi nhuận lớn hơn và nhanh hơn rất nhiều – đi buôn. Kết quả là chỉ trong hơn 20 năm, Việt Nam đã nhanh chóng chuyển đổi từ một đất nước của nông dân thành đất nước của những doanh nhân. Trong số gần 500 ngàn doanh nghiệp hiện nay, không khó để nhận thấy số lượng các doanh nghiệp chỉ kinh doanh mà không tham gia sản xuất đang chiếm ưu thế. Trần Văn Tuấn
– WHY IS VIETNAM STILL POOR? – Mọi thứ rồi cũng sẽ ra đi. Chỉ duy nhất sự tử tế còn ở lại. Có phải đất nước ta nghèo vì Dân số đông, diện tích nhỏ, chiến tranh triền miên, tài nguyên ít ỏi, lịch sử đau thương, rào cản ngôn ngữ hay thể chế chính ngần đó nguyên nhân đã đủ để cho một đất nước nghèo chưa? Vâng xin thưa đủ để bạn nghèo đi vì những năm tháng qua và thật khó khăn để làm giầu lên trong thời gian tới. Vậy bạn muốn nói rằng trong suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc, đất nước Việt Nam cho tới năm nam luôn bị đô hộ, cai trị, bóc lột và chiến tranh điều đó đã tác động lớn tới nền kinh tế khó khăn kiệt quệ kéo dài đã gây nên những hệ lụy ảnh hưởng rất nhiều về văn hoá, tập tục. Thay vào đó là những mưa cầu khát vọng làm sao thoát được sự thống trị và được tự do, cơm ao ấm no cuộc sống bình dị an nhàn dẫn tới thói quen cam chịu đã làm triệt tiêu đi những sáng tạo vượt bậc, khát vọng lớn lao, tinh thần quyết liệt đua tranh. Khi nói tới đây liệu có phải chúng ta đang đổ thừa cho biến cố lịch sử đã trôi qua! Đúng vậy đó là những nguyên nhân của biến cố lịch sử, chúng ta khổng thể thay đổi! Vậy phải chăng chỉ có một mình đất nước ta chìm trong gian khó bởi đô hộ, chiến tranh, tài nguyên ít ỏi không? Một so sánh Hàn Quốc, Israel, Singapore, là những hình mẫu vươn lên trở thành những quốc gia đứng đầu về điện tử, công nghiệp như Hàn Quốc, khoa học kỹ thuật như Israel, dịch vụ như Singapore để chúng ta đồng cảm và nhìn lại bỏ qua quá khứ để đi tìm câu hỏi đích thực vì sao ta vẫn nghèo đói. Phải chăng những điều sau đây là những nút thắt quan trọng hơn Chúng ta vẫn vốn tự hào là một dân tộc thông minh, nhanh trí, ham học được cả thế giới phải thừa nhận thông qua các cuộc thi trí tuệ Omlypic toán, lý, hoá luôn ở vị trí dẫn đầu thế giới Thật không may rằng thay vì sử dụng thông minh đó để cải tiến phát huy sáng tạo, sáng chế chúng ta chỉ dùng trí thông minh để đối phó ví như ngày xưa thì chiến tranh, nghèo đói, khó khăn, áp bức bóc lột. Ngày này thì lách luật, trốn tránh, mưa mô lươn lẹo trong mọi hoạt động từ giáo dục, học tập, kinh doanh, tôn giáo, hay cả chính trị ngoại giao Dẫu cho có thông minh hơn nữa, chịu khó hơn, chịu khổ hơn cũng không khiến chúng ta có được những cải tiến, sáng tạo trong lao động, khoa học đời sống và công nghệ vì sự thông minh không đồng hành với tầm nhìn rộng, tư duy dài hạn. Lấy ví dụ như khi chúng ta đi lao động, học tập tại các nước phát triển, mong muốn cuối cùng lại không phải là học được công nghệ, bí quyết kinh doanh hay khoa học, dịch vụ để mang về ứng dụng cho công việc, hoạt động và cuộc sống mà thay vào đó là làm sao để có được mong muốn cá nhân đạt được nhiều hơn. Xem vào thành quả nông nghiệp của chúng ta sẽ thấy chúng ta không tạo nên được bao nhiêu thay đổi. Vậy còn khát vọng thì sao? Chính khát vọng mới là sự dẫn dắt chúng ta trở nên sẽ ra sao, làm được những gì, đi được tới đâu. Nếu cả dân tộc với khát vọng quá khiêm tốn, việc đạt được mục đích và dễ thoả mãn với điều nhỏ nhoi khiến chúng ta không có hoài bão lớn lao, lý tưởng cao đẹp và thành công rực rỡ vang dội. Bởi chính những khát vọng nhỏ bé đã không thôi thúc chúng ta dám làm những điều phi trường. Không có khát vọng lớn thì chẳng có động lực biến chúng ta thành những chiến binh tận hiến sẵn sàng chiến đấu không ngừng nghỉ cho những khát vọng tạo nên những điều vĩ đại thần kỳ. Lịch sử 4000 năm nhưng chẳng có được bao năm độc lập để tạo nên bản sắc văn hoá riêng mà luôn bị đồng hoá, lai tạp, chắp vá từ tín ngưỡng, sắc tộc, văn hoá cho đến tôn giáo Nhiều đình chùa, miếu mạo tạo nên quá nhiều hội hè, nghi lễ, thờ tự, cũng kiễng khiến chúng ta mất nhiều thời gian thông qua việc tụ tập, a dua, hội họp, chia phe, kết phái, lập hội chia nhỏ xé lẻ sự đại đoàn kết sức mạnh. Từ đó chúng ta chẳng thể tạo nên sức mạnh hùng cường từ thể thao cho tới những tập đoàn kinh tế có sức ảnh hưởng lớn mạnh tới thế giới. Đó là kết quả của chủ việc đề cao chủ nghĩa cá nhân đã làm suy yếu tinh thần đại đoàn kết dân tộc Sự ích kỷ, ghen tị của đám đông không đủ chứng kiến cùng nhìn nhận thấu đáo bóp nghẹt sự khác biệt, sáng tạo độc đáo. Rõ ràng khi tinh thân thần đại đoàn kết dân tộc thiếu đi thì lòng tin của từng cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức lẫn xã hội không tin tưởng vào các hoạt động sản xuất tới thương mại từ đó từ doanh nghiệp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm tạo cơ hội tốt cho các doanh nghiệp nước ngoài chiếm lĩnh thị trường trong nước. Ẩn sâu bên trong sự nhiệt tình hiếu khách, xởi lởi hồ hởi thân thiện thiệt tình lại chứa đựng sự hời hợt, hời hợt trong quan hệ xã giao, hời hợt trong nghiên cứu khoa học, hời hợt trong tranh luận và phản biện, ngay cả đến lòng tin đức tín chúng ta cũng rất hời hợt để từ đó khó lòng chúng ta có được những đồng minh hết lòng với chúng ta, hết mình với công việc với sản phẩm hay bất cứ những thứ gì chúng ta đã tạo ra và để lại cho tới ngày nay. Vì hời hợt nên chẳng thể kiên trì, kiên định, chúng ta không tạo nên một nền kinh tế mũi nhọn nào đóng góp và nổi danh khắp năm châu bốn biển từ công, nông nghiệp, luyện kim, khai khoáng, xây dựng, may mặc, điện tử, điện lạnh, công nghệ thông tin, truyền thông, du lịch hay cả ẩm thực chẳng thể tìm ra một ngành nghề, công ty nào, thương hiệu nào gì khiến chúng ta đáng tự hào hơn thế nữa. Còn tiếp… Khởi nghiệp giữa sa mạc Dựa trên câu chuyện có thật ở đời thường. Xem thêm Chuối Việt Nam, giá trị bị quên lãng Cùng Vinachuoi trải nghiệm tinh túy của chuối Việt Nam Xem thêm Đăng nhập
vì sao việt nam nghèo